Bệnh tim bẩm sinh
Lỗ đái đỗ thấp
Não úng thủy - Dị tật bẩm sinh
Tật nứt đốt sống
Thoát vị bẹn
Tinh hoàn ẩn - Dị tật bẩm sinh
Trật khớp háng bẩm sinh
Suy giảm thính lực bẩm sinh
Hội chứng Down (Đao)
Chậm phát triển tâm thần
Ngày:
25/09/2014
Lượt xem:
2637
Bài viết thứ 00/13 thuộc chủ đề “Dị tật bẩm sinh”
Trẻ bị khe hở môi (sứt môi) có một khe hở ở môi trên, khe này có thể kéo dài từ môi trên đến lỗ mũi (hình 1).
Hình 1: Trẻ bị sứt môi
Trẻ bị khe hở hàm (hở hàm) có một khe hở ở trên vòm miệng, thông với ống mũi. (hình 2)
Hình 2: Trẻ bị hở hàm
Trẻ có thể chỉ bị khe hở môi hoặc chỉ bị khe hở hàm nhưng cũng có thể bị cả hai tật này cùng một lúc (hình 3).
Hình 3: Trẻ bị hở hàm và sứt môi
Môi được hình thành vào giữa tuần lễ thứ 4 và thứ 5 của thai kì. Hàm trên được hình thành vào giữa tuần thứ 7 và tuần thứ 8. Khe hở môi và khe hở hàm xảy ra ở thai nhi vào những thời điểm này, nghĩa là rất sớm trong quá trình phát triển của phôi thai.
Khe hở môi và khe hở hàm xảy ra do tác động của nhiều yếu tố tác động vào quá trình hình thành môi và hàm trên. Nguyên nhân của tật này rất phức tạp, được cho là do sự phối hợp giữa yếu tố di truyền (từ cả bố và mẹ) và yếu tố môi trường. Những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bị khe hở môi – hàm:
Ở nước ta chưa có thống kê cụ thể. Tỉ lệ mắc tật khe hở môi – hàm chiếm khoảng 1 trên 550 trẻ sinh tính trên thống kê dân số của toàn thế giới.
Trẻ sinh ra với tật khe hở môi và hàm thường gặp phải những khó khăn khi bú, sặc thức ăn vào mũi hoặc nôn thức ăn ra theo đường mũi.
TRƯỚC KHI PHẪU THUẬT
Cho trẻ bú mẹ là cách nuôi dưỡng tốt nhất.
Trẻ cần được giữ ở tư thế ngồi hoặc hơi thẳng đứng, tư thế này sẽ giúp hạn chế sữa mẹ chảy vào trong mũi và làm trẻ bị sặc. Có hai tư thế mà bà mẹ có thể chọn khi cho con bú:
Trẻ được đặt ngồi trên giường hoặc trên gối, lưng của trẻ được đặt tựa trên cẳng tay của mẹ và đầu của trẻ được đỡ bởi lòng bàn tay kia của mẹ (hình 4).
Hình 4: Cho trẻ hở hàm sứt môi bú (tư thế cho bú thứ nhất)
Trẻ được đặt ngồi trong lòng mẹ, mặt quay về phía mẹ, hai chân của trẻ giạng ra trên bụng mẹ (hình 5).
Hình 4: Cho trẻ hở hàm sứt môi bú (tư thế cho bú thứ hai)
Ở cả hai tư thế cần lưu ý để vú mẹ không đè ép lên mũi trẻ làm trẻ không thở được. Khi cho bú nên để vị trí đầu trẻ quay sang bên phải trong lần bú này và quay sang bên trái trong lần bú khác để trẻ có thể sử dụng tất cả các cơ ở vùng miệng.
Đưa vú vào thật sâu trong miệng trẻ để sữa chảy vào phía sau lưỡi của trẻ.
Đôi khi bà mẹ phải vắt sữa vào ly và cho trẻ uống sữa bằng thìa (hình 6). Để tránh sặc khi cho trẻ ăn bằng thìa nên cho trẻ ngồi ở tư thế như trong (hình 7) với đầu hơi đưa về phía trước một chút.
Hình 6, 7: Cách cho trẻ bị tật khe hở môi và hàm uống sữa
Nếu cho trẻ bú bình, cũng cần giữ cho trẻ ở tư thế này, núm vú nên đặt vào phần miệng có mô lành (phần không bị khe hở).
Nên sử dụng bình sữa bằng nhựa dẻo để giúp trẻ bú dễ hơn và tiết kiệm sức cho trẻ bằng cách bóp vào bình sữa khi cho trẻ bú. Tránh cho trẻ bú nhiều không khí bằng cách bóp bình sữa để đẩy hết khí ra ngoài trước khi cho trẻ bú (hình 8).
Để giúp trẻ bú bình dễ hơn nên xẻ đầu núm vú theo hình chữ thập (+) (hình 9). Nếu được nên xẻ lệch một bên để khi đưa núm vú vào miệng, sẽ đặt phía xẻ áp lên phần lưỡi của trẻ, vị trí này sẽ giúp sữa không chảy quá nhanh khi trẻ bú.
Hình 8,9: Cho trẻ bị tật khe hở môi và hàm bú sữa
Nên cho trẻ bú trước khi trẻ quá đói: Khi quá đói trẻ sẽ khóc to và có vẻ kích động làm việc cho bú trở nên khó khăn. Do đó mẹ của trẻ nên phát hiện các dấu hiệu báo hiệu trẻ đói như thấy mắt trẻ chuyển động phía sau mí mắt, miệng trẻ cử động, trẻ cho tay vào miệng v.v.. để cho trẻ bú kịp thời khi trẻ vừa đói
Sau khi cho ăn hoặc bú nên lau chùi khe hở môi bằng bông tẩm nước sạch.
Ngay cả khi cho trẻ bú đúng tư thế, hiện tượng sặc sữa qua mũi vẫn xảy ra. Mẹ của trẻ không nên quá lo lắng về việc này vì việc sặc sữa luôn luôn xảy ra vào thời gian đầu, điều này không gây hại gì cho trẻ và sẽ giảm dần theo thời gian khi trẻ lớn dần.
Khi xảy ra sặc sữa, cho trẻ ngừng bú, để cho trẻ một vài giây để ho hoặc hắt hơi. Thời gian ngắn nghỉ bú này sẽ giúp trẻ làm sạch mũi và cho phép trẻ tiếp tục bú trở lại.
Một thiết bị gọi là máng ăn (hình 10a và b) được sử dụng để làm bít sự thông thương giữa hốc miệng và hốc mũi, giúp cho trẻ không bị sặc khi ăn.
Hình 10a,b: Thiết bị máng ăn dành cho trẻ bị khe hở môi hàm – không bị sặc khi ăn.
Ngoài ra máng ăn còn có các tác dụng khác như:
Việc cho trẻ ợ thường xuyên chỉ cần thiết khi trẻ nuốt nhiều không khí. Trẻ sẽ cho biết khi nào cần ợ bằng cách tự nhiên bú chậm lại hoặc ngừng bú. Trẻ không bao giờ cần ợ khi đang bú mạnh.
Miệng của trẻ dù có hay không bị khe hở môi -hàm đều có xu hướng tự làm sạch. Đối với hầu hết các trẻ bị khe hở môi – hàm việc làm sạch các mảng sữa bám ở khe hở được thực hiện khá đơn giản bằng cách cho trẻ uống vài ngụm nước là đủ.
CHUẨN BỊ PHẪU THUẬT
Đối với trẻ bị tật khe hở môi một bên, để chuẩn bị tốt cho việc phẫu thuật, bố mẹ của trẻ cần thường xuyên làm giãn phần môi bị biến dạng theo cách như (hình 11) để 2 bên môi hở tiến sát lại gần nhau hơn.
Hình 11: Thao tác chuẩn bị phẫu thuật trẻ bị tật khe hở môi một bên
Đối với khe hở môi hai bên, nên sử dụng băng dính môi để làm khép khe hở môi và tránh phần xương tiền đình vẫu nhiều ra trước (hình 12 a và b).
Hình 12a, b: Trẻ bị tật khe hở môi hàm hai bên
Nên hỏi các bác sĩ răng hàm mặt về loại băng dính không gây kích ứng da để tránh làm tổn thương da của trẻ.
Dùng băng dính không đúng sẽ làm da trẻ bị kích ứng (hình 13).
Hình 13: Trẻ bị tật khe hở môi hàm – da bị kích ứng do băng dính
PHẪU THUẬT VÀ SAU PHẪU THUẬT
Đối với tật khe hở môi: độ tuổi tốt nhất để thực hiện phẫu thuật là sau từ 4 đến 6 tháng tuổi.
Đối với tật khe hở hàm: tuổi tốt nhất để thực hiện phẫu thuật là sau 18 tháng tuổi.
Việc phẫu thuật cho trẻ bị tật khe hở môi-hàm càng sớm càng giúp trẻ cải thiện được khả năng ăn uống, khả năng nói và khuôn mặt của trẻ.
Mặc dù đã phẫu thuật thành công nhưng trẻ vẫn có thể vấp phải một số vấn đề trong chức năng nói, nên gia đình cần động viên trẻ nói càng rõ càng tốt, và thực hiện các bài tập môi và lưỡi
Miệng trẻ nếu không hoạt động tốt sẽ luôn luôn há ra và nhỏ nước dãi, tình trạng này thường làm cho lưỡi không phát triển và ảnh hưởng đến chức năng nói của trẻ (hình 14).
Hình 14: Nhỏ nước dãi ở trẻ bị tật khe hở môi hàm
Để sửa chữa tình trạng trên không nên bắt trẻ phải ngậm miệng lại vì điều này thường không thành công và đôi khi có tác dụng ngược lại. Nên thực hiện các bài tập sau cho trẻ:
Hình 15: Căng nhẹ nhàng cơ môi theo hình mũi tên ở trẻ bị tật khe hở môi hàm
Hình 16: Tập môi lưỡi mạnh hơn ở trẻ bị tật khe hở môi hàm
Hình 18: Chăm sóc răng ở trẻ bị tật khe hở môi hàm
Hình 19: Chỉnh răng của trẻ bị tật khe hở môi hàm
DỰ PHÒNG
Một số nghiên cứu cho thấy axit fôlic có thể giúp ngăn ngừa tật khe hở môi hàm. Phụ nữ trước và trong khi mang thai nên dùng từ 0, 4 đến 1mg axit fôlic mỗi ngày và nên uống ít nhất là từ 1 tháng trước khi mang thai. Axit fôlic có nhiều trong rau xanh, cam quít và tất cả các loại ngũ cốc, ăn những thức ăn này sẽ góp phần làm tăng lượng axit fôlic trong cơ thể.
Chú ý
Cần cẩn thận với việc sử dụng Vitamin A khi mang thai. Vitamin A được dùng ở liều cao (trên 10.000 IU/ ngày) sẽ gây ra một số dị tật ở thai nhi trong đó có khe hở môi – hàm.
Cám ơn bác sĩ BS.Lê Thanh Nhã Uyên đã chia sẻ bài viết này
Tài liệu tham khảo
http://chaodontuonglai.vn/modules.php?name=Thongtin&go=page&pid=39
1. Aziz Sahu-Khan (2008), The Role of An Orthodontist in a Cleft Lip and Palate. University of NewCastle, Faculty of Education and Arts School of Humanities and Social Science.
2. David Werner (1996), Disabled Village Children. The Hesperian Foundation, 2nd edition.
3. Gideon Koren (2007), Medication Safety in Pregnancy & Breastfeeding. The Evidence-Based A to Z Clinician’s Pocket Guide. International Edition. Mc Graw Hill.
4. Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược Huế (2006), Giáo trình về phẫu thuật hàm mặt.
Từ khóa
Đang cập nhật