Bệnh tim bẩm sinh
Khe hở môi - hàm (Sứt môi hở hàm ếch)
Lỗ đái đỗ thấp
Não úng thủy - Dị tật bẩm sinh
Trật khớp háng bẩm sinh
Suy giảm thính lực bẩm sinh
Tật nứt đốt sống
Thoát vị bẹn
Tinh hoàn ẩn - Dị tật bẩm sinh
Hội chứng Down (Đao)
Ngày:
09/09/2014
Lượt xem:
2203
Bài viết thứ 10/13 thuộc chủ đề “Dị tật bẩm sinh”
Chậm phát triển tâm thần là một khiếm khuyết của sự phát triển trí não, trẻ bị chậm phát triển tâm thần có trí thông minh thấp hơn so với bình thường và các kỹ năng sinh hoạt hằng ngày cũng bị hạn chế. Chậm phát triển tâm thần được gặp rất phổ biến với tỷ lệ từ 1-3% dân số. Với tỷ lệ này mỗi năm Việt nam sẽ có khoảng từ 12.000 đến 36.000 trẻ sẽ bị loại khuyết tật này.
Hình 1: Giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển tâm thần
Trẻ bị chậm phát triển tâm thần bị giới hạn về chức năng trí tuệ và trong các kỹ năng sinh hoạt hằng ngày, kỹ năng xã hội, giao tiếp, ngôn ngữ, vận động v.v… làm trẻ gặp nhiều khó khăn trong việc học tập và tiếp thu kiến thức. Trẻ mất nhiều thời gian hơn để tập nói, tập đi đứng và học cách tự chăm sóc bản thân trong các nhu cầu hàng ngày như ăn uống, tắm rửa, mặc quần áo v.v…
Chậm phát triển tâm thần không phải là do trẻ lười biếng, không chịu học tập mà là một rủi ro ngoài ý muốn. Do đó trẻ cần nhận được sự cảm thông, tình thương và tôn trọng của gia đình và cộng đồng. Trẻ cần nhận được sự đảm bảo về mặt y tế, xã hội, giáo dục như các trẻ bình thường khác. Nếu được hỗ trợ, giáo dục, hướng dẫn thích đáng, đa số trẻ có thể phát triển các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống và làm giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội (hình 1).
Nguyên nhân của chậm phát triển tâm thần rất phức tạp, khoảng 60% trường hợp chưa xác định được nguyên nhân và khoảng từ 20-40% là do di truyền. Dưới đây là một số nguyên nhân phổ biến:
Chậm phát triển tâm thần xảy ra do trẻ nhận vật liệu di truyền (gen, nhiễm sắc thể) bất thường từ bố mẹ. Trường hợp bất thường phổ biến nhất là hội chứng Down do có tới 3 NST thứ 21, hội chứng NST giới tính X dễ gãy v.v… và một số bệnh do bố mẹ truyền gen bị đột biến như bệnh suy giáp bẩm sinh, đi tiểu ra phenylkêtôn do rối loạn chuyển hóa axit amin phenylalanin v.v..
Do trong thời kỳ mang thai mẹ sử dụng một số loại thuốc chữa bệnh, bị nhiễm phóng xạ, tiếp xúc với các hóa chất độc hại hoặc nghiện rượu. Nếu khi mang thai mẹ bị mắc một số bệnh nhiễm virut như rubella, cytomegalovirus v.v… cũng có thể làm cho trẻ bị chậm phát triển tâm thần.
Trẻ bị sinh non tháng, bị chấn thương não hoặc bị ngạt khi sinh cũng có thể bị chậm phát triển tâm thần.
Trẻ bị viêm não hoặc biến chứng viêm não do virut hoặc vi khuẩn mà không được điều trị hiệu quả; bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng; trẻ vô tình bị nhiễm các các chất độc như chì, thủy ngân qua thức ăn v.v… cũng có thể gây ra chậm phát triển tâm thần.
Tình trạng đói nghèo, trẻ không được quan tâm chăm sóc, không có điều kiện để giao tiếp v.v… cũng có thể làm cho trẻ bị chậm phát triển tâm thần.
Trẻ chậm phát triển tâm thần thường được phát hiện ở tuổi đến trường, khi mà những yêu cầu của việc học làm cho tình trạng khó khăn trong học tập và những biểu hiện bất thường về hành vi của trẻ trở nên rõ ràng. Trẻ bị chậm phát triển tâm thần có thể có một số biểu hiện như sau:
Trẻ cũng có thể bị động kinh hoặc có một vài vấn đề tâm thần, hành vi bất bình thường. Trẻ có thể rơi vào tâm trạng buồn phiền, chán nản nếu bị bạn học xa lánh hoặc cảm thấy bị mọi người coi thường. Nhiều trẻ có thể những hành đông phá phách, hung bạo, không tự chủ được trước một bất bình nhỏ. Điều này xảy ra là do là trẻ không thể học cách hành xử, suy luận như trẻ bình thường.
Để đánh giá mức độ chậm phát triển tâm thần người ta thường dựa vào việc đánh giá thương số trí tuệ IQ (Intelligence Quotient), trẻ bị chậm phát triển tâm thần có thương số trí tuệ IQ thấp. Việc đo thương số trí tuệ được thực hiện bởi các chuyên gia về tâm lý hoặc tâm thần. Có nhiều loại trắc nghiệm đã được các chuyên gia sử dụng để đánh giá như trắc nghiệm Raven, Unit v.v…
Bên cạnh việc thực hiện các xét nghiệm sinh hóa, chụp X quang, phân tích bộ nhiễm sắc thể v.v… để tìm kiếm nguyên nhân, việc chẩn đoán chậm phát triển tâm thần được thực hiện bởi các chuyên gia đã qua đào tạo dựa trên việc đánh giá hai khả năng căn bản sau đây của trẻ thông quá phỏng vấn bố mẹ và đánh giá trẻ một cách trực tiếp:
Chậm phát triển tâm thần được chia ra làm bốn mức độ:
Chậm phát triển tâm thần không thể điều trị được. Mục đích chính của điều trị là giúp trẻ phát triển tối đa các khả năng của mình. Các chương trình giáo dục và huấn luyện đặc biệt nên được bắt đầu ngay từ lúc trẻ còn bé (được gọi là can thiệp sớm) mà mục đích là giúp trẻ phát triển càng giống bình thường càng tốt. Một số trung tâm có tổ chức hướng nghiệp để giúp trẻ học một số nghề đơn giản và tạo việc làm có thu nhập.
Đối với trẻ chậm phát triển tâm thần có các dấu hiệu của bệnh tâm thần như trầm cảm, rối loạn suy nghĩ, có hành vi phá phách v.v… cần được khám bởi các bác sĩ tâm thần để có phương pháp điều trị thích hợp.
Việc phòng ngừa chỉ hiệu quả đối với các trường hợp có nguyên nhân rõ ràng. Y học hiện nay cho phép thực hiện một số các xét nghiệm và siêu âm trước sinh giúp phát hiện sớm một số bệnh có gây chậm phát triển tâm thần như bệnh Đao hoặc xét nghiệm ngay sau sinh để phát hiện bệnh như trường hợp suy giáp bẩm sinh để có biện pháp điều trị kịp thời.
Các bà mẹ cần được tư vấn để chích ngừa phòng bệnh sởi do virut rubella. Không uống nhiều rượu và cần ăn uống đầy đủ trong thời gian mang thai. Để có thể dự phòng chậm phát triển tâm thần các bà mẹ nên đến bác sĩ tư vấn di truyền để được tư vấn.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện này các trẻ chậm phát triển tâm thần, đặc biệt là các trẻ chậm phát triển tâm thần ở mức độ trung bình và nặng khó có thể theo học ở các trường học bình thường. Trẻ chỉ có thể học tốt nếu nhận được sự giúp đỡ cho từng cá nhân. Tại các trường học chuyên biệt, giáo viên sẽ lập chương trình riêng cho mỗi em, xác định nhu cầu của mỗi trẻ và phối hợp với gia đình để cùng giúp trẻ học tập và phát triển.
Hình 2: Trẻ chậm phát triển tâm thần đang học toán tại lớp học
Nhìn chung nội dung học của trẻ tại trường chuyên biệt tập trung vào việc giúp trẻ phát triển các kỹ năng:
Cám ơn bác sĩ BS.Lê Thanh Nhã Uyên đã chia sẻ bài viết này