menu toggle

Danh sách các chủ đề

list list 0
Đã thích Thích

Quyển 3: Hợp phần Giáo dục – Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng [eBook]

user

Ngày:

25/01/2016

user

Lượt xem:

224

Bài viết thứ 03/07 thuộc chủ đề “Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng”

Chăm sóc và giáo dục mầm non

Giáo dục tiểu học

Giáo dục trung học và đại học

Giáo dục không chính quy

Học tập suốt đời

Download tài liệu

https://www.slideshare.net/login?from_source=%2Fyhoccongdong%2Fquyen-3-hop-phan-giao-duc%3Ffrom_action%3Dsave&from=download&layout=foundation

Bản tóm tắt

1. Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng HỢP PHẦN GIÁO DỤC
2. Thư viện dữ liệu của tổ chức WHO Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng: Cẩm nang hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng 1. Phục hồi chức năng. 2. Người khuyết tật. 3. Các dịch vụ sức khỏe cộng đồng. 4. Chính sách y tế. 5. Quyền con người. 6. Công bằng xã hội. 7. Sự tham gia của khách hàng. 8. Hướng dẫn. I. Tổ chức Y tế thế giới. II. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc. III. Tổ chức Lao động Quốc tế. IV. Tổ chức vì sự phát triển người khuyết tật Quốc tế. ISBN 978 92 4 354805 0 (THƯ VIỆN Y KHOA QUỐC GIA HOA KỲ / MÃ TRA CỨU:WB 320) Xuất bản bởi Tổ chức Y tế Thế giới vào năm 2010 với tựa đề: “Community-based rehabilitation: CBR guidelines” Bản quyền © Tổ chức Y tế Thế giới 2010 WHO bảo lưu mọi quyền. Các ấn phẩm của Tổ chức Y tế Thế giới có thể được mua tại cơ quan báo chí WHO, Tổ chức Y tế Thế giới, số 20 Đại lộ Appia, 1211 Giơ-ne-vơ 27, Thụy Sỹ (điện thoại: +41 22 791 3264; fax: +41 22 791 4857; e-mail: bookorders@who.int). Các yêu cầu về xin phép tái bản hoặc dịch thuật các ấn phẩm của WHO – bất kể với mục đích kinh doanh hay phân phối phi thương mại – phải được phép của cơ quan báo chí WHO , tại địa chỉ nêu trên (fax: +41 22 791 4806; e-mail: permissions@who.int). Các chức danh được sử dụng và việc trình bày các tư liệu trong ấn phẩm này không ám chỉ bất kỳ quan điểm nào của Tổ chức Y tế Thế giới liên quan tới tình trạng pháp lý của bất kỳ quốc gia, lãnh thổ, thành phố hay khu vực hoặc các nhà chức trách ở đó, hay liên quan tới giới hạn về ranh giới hay biên giới. Các đường chấm trên các bản đồ đại diện cho các đường biên giới tương đối mà có thể chưa có sự nhất trí hoàn toàn. Việc đề cập các công ty cụ thể hoặc các sản phẩm của các nhà sản xuất cụ thể không ám chỉ rằng họ được khuyến khích hay khuyến nghị bởiTổ chứcY tếThế giới hơn là các công ty hay sản phẩm khác cùng loại không được nhắc tới. Ngoại trừ do sai sót và thiếu sót, tên của các sản phẩm đã có quyền sở hữu được phân biệt bằng các chữ cái đầu viết hoa. Tổ chức Y tế Thế giới đã rất thận trọng trong việc xác minh các thông tin có trong ấn phẩm này. Tuy nhiên, tài liệu xuất bản này không được đảm bảo dưới bất kỳ hình thức nào kể cả khi được thể hiện rõ hay ngụ ý. Độc giả chịu trách nhiệm về việc diễn giải và sử dụng tài liệu này. Tổ chức Y tế Thế giới sẽ không chịu trách nhiệm về các thiệt hại do sử dụng tài liệu này. Cục Bảo trợ Xã hội, Bộ Lao động,Thương binh và Xã hội,Việt Nam đã được Giám đốc củaTổ chức Y tế Thế giới trao quyền dịch thuật và xuất bản một ấn phẩm tiếng Việt và sẽ chịu trách nhiệm chính đối với bản Tiếng Việt này. Thiết kế và trình bày bởi Inís Communication – www.iniscommunication.com In tại Việt Nam
3. Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng HỢP PHẦN GIÁO DỤC Nội dung Lời nói đầu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .1 Chăm sóc và giáo dục mầm non . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11 Giáo dục tiểu học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 27 Giáo dục trung học và đại học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 45 Giáo dục không chính quy . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 55 Học tập suốt đời . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 65
4. Lời nói đầu 1 Lời nói đầu Giáo dục là việc mọi người được học những gì họ cần và mong muốn trong suốt cuộc đời, dựa vào khả năng của họ. Việc này bao gồm “học để biết, để làm, để chung sống và để tồn tại”(1). Giáo dục được thực hiện ở gia đình, cộng đồng, trường học, các cơ sở, và trong toàn xã hội. Giáo dục là quyền được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế được công nhận toàn cầu:Tuyên ngôn nhân quyền thế giới, Điều 26(2), và Công ước về quyền trẻ em, Điều 28 (3) Trong khi các văn kiện quốc tế khẳng định rằng giáo dục tiểu học phải được miễn phí và phổ cập đối với mọi trẻ em mà không có sự phân biệt nào thì có một điều được công nhận rộng rãi rằng trong thực tế điều này không xảy ra, do đó, một số văn kiện gần đây đã nhấn mạnh cần phải: •Mở rộng, cải thiện chăm sóc và giáo dục mầm non; • Đạt mục tiêu giáo dục tiểu học miễn phí, bắt buộc và có chất lượng cho mọi trẻ em •Bảo đảm tiếp cận bình đẳng với các hình thức học tập thích hợp, các chương trình kĩ Năng sống và chương trình giáo dục cơ bản và liên tụccho người lớn. •Thúc đẩy bình đẳng giới •Tạo điều kiện hòa nhập cho các nhóm bị gạt ra ngoài lề, yếu thế và bị phân biệt đối xử ở tất cả các cấp Công ước về Quyền của người khuyết tật (4) đã tái khẳng định các quyền được thảo luận trên đây và là văn bản ràng buộc về mặt pháp lý đầu tiên khẳng định cụ thể quyền được giáo dục hòa nhập: Các nước thành viên của Công ước phải đảm bảo rằng “Cung cấp các biện pháp trợ giúp cá nhân hóa có hiệu quả, trong môi trường tối đa hóa sự phát triển xã hội và hàn lâm, phù hợp với mục đích hoà nhập trọn vẹn”(Điều 24, đoạn 2(e)). Các biện pháp này bao gồm việc học chữ nổi Braille, ngôn ngữ ký hiệu, các phương thức, phương tiện và cách thức giao tiếp khác nhau cũng như kĩ năng định hướng và di động. Nghèo đói, sự cách ly và phân biệt đối xử là những rào cản chính đối với giáo dục hòa nhập (5). UNESCO ước tính rằng trên 90% trẻ em khuyết tật ở các quốc gia thu nhập thấp không được đến trường; và ước tới 30% trẻ em sống ngoài đường phố trên toàn thế giới là trẻ khuyết tật. Đối với người lớn bị khuyết tật, tỷ lệ biết đọc biết viết ở khoảng 3%, thậm chí là 1% đối với nữ giới bị khuyết tật ở một số nước (6). Những con số trên đây là bằng chứng cho thấy việc cần thiết phải tiến hành các bước nhằm đảm bảo tiếp cận với giáo dục cho trẻ em khuyết tật. Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (7) đã xác định một cách đúng đắn ở mục tiêu số 2, đó là hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Mục tiêu hướng tới là vào năm 2015, tất cả trẻ em, không phân biệt trai hay gái, đều có thể hoàn tất giáo dục tiểu học. Mục tiêu này được áp dụng một cách bình đẳng với trẻ khuyết tật, và do đó chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng(PHCNDVCĐ) cần góp phần vào việc thực hiện mục tiêu này.
5. 2 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC HỘP 1 Ở Mông Cổ, một chương trình giáo dục hòa nhập quốc gia đang được phát triển thông qua sự hợp tác giữa Chính phủ, hội cha mẹ, các tổ chức phi Chính phủ quốc tế và các nhà tài trợ trong khối EU. Trước năm 1989, Mông Cổ cung cấp một số trường học đặc biệt và trung tâm chăm sóc cư trú cho trẻ em và người khuyết tật. Hệ thống này đã bảo đảm được một số nhu cầu cơ bản, nhưng lại lấy đi những quyền khác của người khuyết tật, như việc hòa nhập với xã hội. Sau khi những thay đổi về chính trị và kinh tế dẫn đến sự đóng cửa của các trường học và cơ sở này, một phương pháptiếp cận mới đang được mở ra. Vào năm 1998, với sự hỗ trợ từ một tổ chức phi Chính phủ, Hiệp hội cha mẹ có trẻ khuyết tật (APDC) được thành lập nhằm bảo vệ quyền có trẻ khuyết tật. APDC thực hiện các hoạt động sau đây: rà soát chính sách, hội thảo tập huấn về giáo dục hội nhập nhằm học hỏi từ các quốc gia khác, phối hợp với Bộ giáo dục để cải cách chính sách và thực tiễn, và xác định một số dịch vụ hỗ trợ thiết yếu cần có để giúp trẻ khuyết tật, bao gồm cả giáo dục. Việc tái hòa nhập dựa vào cộng đồng được coi là một phần không thể tách rời trong chiến lược chung về thúc đẩy và bảo vệ quyền trẻ khuyết tật. Vào năm 2003, Vụ Giáo dục Hòa nhập được thiết lập trong cơ cấu Bộ Giáo dục và một ủy ban thực thi các chương trình được thành lập hợp tác với Bộ Y tế, Phúc lợi xã hội và Lao động. Dịch vụ xác định sớm, chăm sóc y tế và hòa nhập đã được tạo lập tại các trung tâm dựa vào cộng đồng địa phương. Ban đầu, các ưu tiên chỉ được dành cho giáo dục hòa nhập ở cấp mầm non, cho đến nay, nó được mở rộng đến các trường tiểu học. Có hơn 1000 trẻ khuyết tật được hòa nhập tại các nhà trẻ và các giáo viên được đào tạo để làm việc theo phương pháp hòa nhập. APDC tiếp tục phát triển và kết nối với các nhóm khác ở cấp quốc gia và quốc tế nhằm thúc đẩy quyền của trẻ em. Ưu tiên giáo dục hoà nhập cho trẻ em Mông Cổ
6. Lời nói đầu 3 Mục tiêu Người khuyết tật tiếp cận với giáo dục và học tập suốt đời, hướng tới hoàn thiện tiềm năng, ý thức về nhân cách, phẩm giá và sự tham gia có hiệu quả vào xã hội. Vai trò của chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng Vai trò của chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là phối hợp với ngành giáo dục và hỗ trợ thực hiện giáo dục hòa nhập, và tạo thuận lợi cho việc tiếp cận giáo dục và học tập suốt đời đối với người khuyết tật. Kết quả mong đợi •Mọi người khuyết tật đều được tiếp cận với học tập và các nguồn lực đáp ứng được nhu cầu và tôn trọng quyền của họ. •Các trường học địa phương nhận tất cả các trẻ em, bao gồm cả trẻ khuyết tật, để trẻ có thể học tập và làm việc cùng với các trẻ em khác. •Các trường học địa phương luôn có thể tiếp cận và sẵn sàng chào đón trẻ khuyết tật; có những chương trình giảng dạy linh hoạt, các giáo viên được đào tạo và hỗ trợ, sự kết nối hiệu quả với gia đình và cộng đồng, và có đủ nước và trang thiết bị vệ sinh. • Người khuyết tật được tham gia giáo dục như một hình mẫu, người ra quyết định và cộng tác viên. •Môi trường gia đình khuyến khích và hỗ trợ cho việc học tập. •Cộng đồng nhận thức rằng người khuyết tật cũng có khả năng học tập và hỗ trợ, khuyến khích họ. •Có sự hợp tác hiệu quả giữa các ngành y tế, giáo dục, xã hội và các Bộ ngành. •Vận động ủng hộ có hệ thống ở tất cả các cấp để đưa vấn đề hòa nhập vào chính sách quốc gia về hòa nhập nhằm tạo điều kiện cho giáo dục hòa nhập. HỘP 2 Trường học phải là một tòa nhà có thể tiếp cận được, các giáo viên được đào tạo để làm việc với tất cả trẻ em, song có thể trừ trẻ em khuyết tật. Những trẻ em khuyết tật có thể bị giấu sau những phòng sau tòa nhà, các gia đình có thể thiếu sự hỗ trợ, và các trẻ em này cần những thiết bị hỗ trợ và phục hồi chức năng. Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng có thể giải quyết tất cả những vấn đề này và kết nối giữa cơ quan giáo dục, sức khỏe, xã hội với các tổ chức của người khuyết tật. Nhân viên PHCNDVCĐ cần trao đổi nhiều lần nhằm thuyết phục cha mẹ về các nhu cầu và lợi ích của việc giáo dục trẻ khuyết tật, đặc biệt khi trẻ là các em gái hoặc bản thân cha mẹ không được giáo dục. Hỗ trợ khả năng tiếp cận với giáo dục hòa nhập
7. 4 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC Các khái niệm chính Giáo dục Giáo dục ở đây có nội dung rộng hơn so với giáo dục ở nhà trường. Giáo dục ở trường có vai trò rất quan trọng nhưng nó cần được nhìn nhận trong bối cảnh của một quá trình học tập suốt cuộc đời. Giáo dục bắt nguồn từ gia đình và tiếp tục trong suốt cuộc đời con người, bao gồm các hình thức giáo dục chính quy, phi chính thức, không chính quy dựa vào gia đình, cộng đồng và các sáng kiến của Chính phủ. Các thuật ngữ này có thể gây mơ hồ và có xu hướng mang ý nghĩa khác nhau trong các nền văn hóa và bối cảnh khác nhau. Nhìn chung:“hình thức giáo dục chính quy”được hiểu là giáo dục tại các cơ sở được công nhận như trường học, trường cao đẳng và đại học, thường dùng để có năng lực và cấp giấy và cấp chứng chỉ được công nhận;“giáo dục không chính quy”là hoạt động giáo dục có tổ chức nhưng nằm ngoài hệ thống chính quy;“hình thức giáo dục phi chính thức”đề cập đến tất cả các hình thức hoạt động khác trong suốt cuộc đời – từ gia đình, bạn bè và cộng đồng, thường không được tổ chức, không giống như các hình thức giáo dục chính quy và không chính quy. Quyền con người Mặc dù tất cả mọi người có quyền được giáo dục, song trên thực tế vẫn tồn tại giả định sai lầm rằng người khuyết tật là một ngoại lệ. Các thành viên trong gia đình, cộng đồng, và thậm chí bản thân người khuyết tật thường không nhận thức được rằng họ có quyền bình đẳng trong giáo dục. Phối hợp với các tổ chức của người khuyết tật (DPOs), các chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng có thể hỗ trợ việc tăng cường quyền năng cho người khuyết tật bằng cách đảm bảo cho họ được tiếp cận với thông tin về các quyền khác nhau liên quan đến giáo dục. Điều này có thể góp phần vào việc vận động hành lang đối với các cơ quan chức năng có nghĩa vụ pháp lý về việc đảm bảo giáo dục cho tất cả mọi người. Quyền giáo dục cần được hiểu trong bối cảnh là một phương pháp tiếp cận phát triển dựa trên quyền. Những quyền này được hiểu là phải được giải quyết cùng lúc chứ không phải tách biệt nhau (có thể xem ở phần giới thiệu (Sách 1): Quyền con người). Đói nghèo và giáo dục Sự liên kết giữa đói nghèo, người khuyết tật và giáo dục có nghĩa là việc cần có một phương pháp tiếp cận phát triển cộng đồng.“Thiếu giáo dục đầy đủ là nguy cơ chính dẫn tới đói nghèo và không thể hòa nhập đối với mọi trẻ em, bao gồm cả trẻ em khuyết tật và các trẻ em bình thường. Tuy nhiên, đối với trẻ em khuyết tật, nguy cơ đói nghèo do thiếu giáo dục có thể cao hơn so với các trẻ em khác. Trẻ em khuyết tật không được giáo dục rõ ràng có thể phải đối mặt với đói nghèo dài hạn và đói nghèo suốt cuộc đời” (8). Người nghèo cũng có thể phải đối mặt với những khó khăn trong việc giáo dục con em bị khuyết tật của mình khi phải trả học phí để tiếp cận với giáo dục.Thậm chí ngay cả khi giáo dục được miễn phí thì vẫn cần phải trả cho các khoản chi phí khác như chi phí cho sách giáo khoa, đồng phục, phương tiện và các thiết bị hỗ trợ. Do đó, trẻ khuyết tật từcácgiađìnhnghèotiếptụckhôngđượcgiáodục,vàvòngquaynghèođóilạitiếpdiễn.
8. Lời nói đầu 5 Giáo dục hòa nhập Mô hình xã hội dành cho người khuyết tật thường rời xa các quan điểm dựa trên khuyết tật cá nhân của người khuyết tật mà thay vào đó tập trung vào việc loại bỏ các rào cản trong xã hội nhằm đảm bảo người khuyết được hưởng cùng cơ hội để thực hiện các quyền của họ trên cơ sở bình đẳng với tất cả những người khác.Tương tự như vậy, giáo dục hòa nhập tập trung vào việc thay đổi hệ thống sao cho phù hợp với học sinh thay vì thay đổi các học sinh để phù hợp với hệ thống. Sự chuyển đổi trong hiểu biết hướng tới giáo dục hòa nhập, một vấn đề mà trong quá khứ, các chương trình PHCNDVCĐ đòi hỏi được giải quyết ở cấp cá nhân (Có thể xem tại phần mở đầu (sách 1): Phát triển khái niệm). HỘP 3 Chương trình PHCNDVCĐ đã nỗ lực trong việc hỗ trợ cho một bé gái sẵn sàng đến trường. Khi ở trường, bé gái này thấy rất khó khăn để đi lại trong một tòa nhà khó tiếp cận và thường xuyên bị những đứa trẻ khác trêu chọc. Cuối cùng, giáo viên của bé gái đã động viên gia đình cho em nghỉ học bởi em không thể tiếp tục được nữa. Một phương pháp tiếp cận hòa nhập tập trung vào nhà trường và loại bỏ các rào cản nhằm tạo cơ hội tham gia học tập cho bé gái này, ví dụ như giúp ngôi trường dễ tiếp cận hơn, trang bị kiến thức cho các giáo viên, thiết lập một môi trường thân thiện và giáo dục tất cả các trẻ em khác biết hòa nhập và hỗ trợ người khác. Nếu trẻ em khuyết tật gặp phải các vấn đề tại trường học thì nhà trường, gia đình và chương trình PHCNDVCĐ tiến hành tìm hiểu các trở ngại đối với sự tham gia của trẻ. Xóa bỏ rào cản đối với sự tham gia của trẻ em gái Giáo dục hòa nhập là“một quá trình xác định và ứng phó với các nhu cầu đa dạng của tất cả học viên thông qua nâng cao sự tham gia vào học tập, văn hóa và cộng đồng, đồng thời, giảm loại trừ trong và từ giáo dục”(9). Giáo dục hòa nhập: •Rộng hơn so với giáo dục ở trường học chính quy – nó bao gồm hệ thống giáo dục tại nhà, trong cộng đồng, các hệ thống không chính quy và phi chính thức; •Dựa trên nhận thức rằng mọi trẻ em có quyền được học tập; •Bảo đảm cấu trúc, hệ thống và phương pháp giáo dục đáp ứng được nhu cầu của mọi trẻ em; •Dựa trên nhận thức và tôn trọng sự khác biệt giữa những đứa trẻ, ví dụ về tuổi tác, giới tính, sắc tộc, tín ngưỡng/tôn giáo, ngôn ngữ, khuyết tật và tình trạng sức khỏe; •Thúc đẩy các quy trình giám sát và đánh giá có tính hòa nhập, tiếp cận được và có sự tham gia •Là một quá trình năng động với sự phát triển liên tục tùy thuộc vào văn hóa và bối cảnh; •Là một phần của chiến dịch rộng hơn nhằm thúc đẩy hòa nhập xã hội. Xem xét các chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng: •Giáo dục hòa nhập thường rộng hơn so với giáo dục tại nhà trường, nó có thể bao gồm giáo dục lấy gia đình làm nền tảng, các nhóm ngôn ngữ ký hiệu dành cho trẻ em/ người lớn bị khiếm thính
9. 6 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC •Giáo dục hòa nhập hướng tới tất cả mọi người, không chỉ cho riêng người khuyết tật. Nó chính là những nỗ lực nhằm nhận diện những người bị loại trừ hoặc đẩy ra ngoài lề của xã hội. Giáo dục hợp nhất Mặc dù thuật ngữ “giáo dục hợp nhất” đôi khi được sử dụng tương tự như khái niệm “giáo dục hòa nhập”, tuy nhiên hai khái niệm này có ý nghĩa khác nhau. Giáo dục hợp nhất được hiểu là quá trình đưa trẻ khuyết tật đến các trường học chính, và hướng sự tập trung vào các cá nhân thay vì hệ thống nhà trường. Sự bất lợi của cách tiếp cận này là trong trường hợp khi một vấn đề xảy ra, lỗi thường bị quy chụp cho đứa trẻ.Tác động và sự bền vững của phương pháp tiếp cận này khá hạn chế, vì sự thành công phụ thuộc vào thiện chí của một giáo viên hay nỗ lực của nhân viên PHCNDVCĐ chứ không phải vào chính sách trường học và hỗ trợ của cộng đồng. Giáo dục đặc biệt “Giáo dục đặc biệt”là một khái niệm rộng, đề cập đến việc cung cấp hỗ trợ bổ sung, các chương trình thích nghi, môi trường học tập hoặc thiết bị, tài liệu hoặc phương pháp chuyên môn (ví dụ chữ như nổi Braille, thiết bị âm thanh, thiết bị hỗ trợ, ngôn ngữ ký hiệu) nhằm hỗ trợ cho trẻ tiếp cận giáo dục. Khái niệm“yêu cầu giáo dục đặc biệt”được sử dụng cho các nhu cầu học tập của bất kỳ trẻ nào có khó khăn trong học tập – do đó, giáo dục đặc biệt không chỉ dành cho người khuyết tật. Có rất nhiều cách thực hiện giáo dục đặc biệt cho trẻ em có nhu cầu giáo dục đặc biệt. Thông thường, trẻ em có nhu cầu về hỗ trợ cao thường tham dự các trường học đặc biệt tách biệt khỏi các trường học chính quy. Mặc dù hướng dẫn của chương trình PHCNDVCĐnhấnmạnhvàogiáodụchòanhập,“cáctrườnghọcđặcbiệt”vẫnlàmộtthực tế đối với rất nhiều trẻ em và gia đình – trong một số trường hợp cụ thể, các trường học này là lựa chọn duy nhất để giáo dục cho trẻ em khiếm thính, khiếm thị hoặc vừa khiếm thính và khiếm thị hoặc những người có khuyết tật thần kinh. Ở các quốc gia có thu nhập thấp, các trường học đặc biệt này thường là các trường nội trú, trẻ em các trường này thường phải sống xa gia đình và cộng đồng. Thật không may, qua thời gian, thuật ngữ“đặc biệt”được sử dụng theo cách không có lợi cho việc thúc đẩy giáo dục hòa nhập. Chẳng hạn, khái niệm“trẻ em có nhu cầu đặc biệt” thường mơ hồ và thường được sử dụng để đề cập đến trẻ khuyết tật mà không quan tâm đến việc họ có gặp khó khăn trong học tập hay không. Sự chăm sóc phải được thực hiện khi sử dụng khái niệm“đặc biệt”, bởi khái niệm này đã tách biệt trẻ khuyết tật khỏi nhóm trẻ em khác. Cũng cần phải ghi nhớ rằng mọi trẻ em học tập theo cách riêng của chúng và trong cuộc đời, chúng có thể thấy dễ dàng hay khó khăn trong từng giai đoạn khác nhau. Chỉ nói rằng trẻ khuyết tật có những yêu cầu học tập“đặc biệt”thì không có ích gì cả, bởi nó không rõ ràng mà ngược lại còn nhấn mạnh vào sự khuyết tật của đứa trẻ.Trẻ em bình thường không bị khuyết tật cũng có thể vấp phải những khó khăn trong học tập và có thể bị loại trừ hoặc không được chú trọng trong cơ sở giáo dục. Mọi trẻ em có thể học tập hiệu quả khi có phương pháp giảng dạy tốt, có các nguồn lực thiết yếu và một môi trường hòa nhập.
10. Lời nói đầu 7 Giới và Giáo dục Nhân viên PHCNDVCĐ cần nhận thức về các vấn đề giới trong giáo dục. Một số ví dụ được đưa ra dưới đây: •Trẻ em gái có thể bỏ lỡ cơ hội học tập trong trường hợp bị yêu cầu phải chăm sóc cho các thành viên bị khuyết tật trong gia đình • Trong một vài tình huống, trẻ em nam có thể bỏ lỡ việc đến trường bởi áp lực phải kiếm tiền để hỗ trợ gia đình. HỘP 4 Tại Hazaribagh, phía bắc Án Độ, Rupa Kumari phải chăm sóc cho cả gia đình bởi mẹ của cô mắc chứng bệnh về thần kinh, cha của cô đã mất, cô có một em trai và một em gái. Để khỏi bỏ lỡ việc học, Rupa đã đưa em gái đến trường cùng với cô, mặc dù lớp học khá rộng tuy nhiên giáo viên không hài lòng về việc này. Rupa đã thuyết phục họ rằng cách duy nhất để cô có thể tiếp tục theo học là cô phải mang theo em gái của mình đến trường. Quyết tâm được đi học của Rupa Ấn Độ •Trong tình trạng có xung đột, trẻ em nam được tuyển dụng vào quân đội và do đó đã bỏ lỡ cơ hội học tập. Có ít nhất 5% trẻ em nam này bị khuyết tật (10), và khi trở về sau cuộc chiến, tất cả đều quá tuổi để tham gia học tiểu học. •Nhân viên PHCNDVCĐ có thể hi vọng mẹ và/hoặc các người thân là nữ của người khuyết tật đảm nhận vai trò giảng dạy, điều này tăng thêm gánh nặng công việc của họ. •Gia đình và cộng đồng thường không ưu tiên giao dục cho trẻ em gái và phụ nữ khuyết tật, do đó đối tượng này phải chịu sự phân biệt đối xử gấp đôi. •Trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái khuyết tật, thường có xu hướng bỏ học do thiếu các thiết bị trong nhà vệ sinh phù hợp cũng như thiếu môi trường an toàn. •Vai trò của người làm cha rất quan trọng và thường bị lãng quên, một người cha có thể là hình mẫu lý tưởng và hỗ trợ giáo dục nếu nhận được sự động viên từ chương trình PHCNDVCĐ. HỘP 5 Tại Lesotho, ít trẻ em nam đăng ký vào học tiểu học hơn, và trẻ em nam thường bỏ học sớm hơn các trẻ em nữ, vì trẻ em nam phải làm công việc chăn thả gia súc và các nghi thức thụ pháp truyền thống. Khoảng cách về giới Lesotho
11. 8 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC Các nhân tố trong học phần này Đối với mỗi nhân tố được xem xét dưới đây, có các khái niệm và lĩnh vực hoạt động đề xuất đã phổ biến với các khía cạnh của giáo dục. Các khía cạnh khác nhau được nhấn mạnh và các ví dụ khác nhau được đưa ra trong mỗi nhân tố, do đó, bạn cần phải đọc toàn bộ phần này, kể cả trong trường hợp bạn chỉ tập trung vào một thành tố cụ thể. Chăm sóc và giáo dục mầm non Thuật ngữ này chỉ giáo dục cho trẻ từ khi sinh ra cho đến khi bắt đầu cấp giáo dục tiểu học chính quy. Việc này được thực hiện ở trong các cơ sở chính quy, không chính quy và phi chính thức, tập trung vào sự tồn tại, phát triển và học tập của trẻ – bao gồm sức khỏe, dinh dưỡng và vệ sinh. Giai đoạn này thường chia theo lứa tuổi: trẻ sơ sinh đến 3 tuổi, từ 3 đến 6, 7 hoặc 8 tuổi, khi việc giáo dục tại trường chính quy bắt đầu. Phần này tập trung chủ yếu vào trẻ em từ 3 tuổi trở lên. Giáo dục tiểu học Đây là bước đầu tiên trên con đường học tập, với mong muốn sẽ được miễn phí và bắt buộc đối với mọi trẻ em. Đây là trọng tâm của sáng kiến Giáo dục dành cho mọi người do UNESCO (11) đề xuất, và là mục tiêu của hầu hết các nguồn lực cho giáo dục. Giống như các trẻ em khác, trẻ khuyết tật cần được tham gia vào trường tiểu học địa phương để được học và chơi với các bạn cùng trang lứa. Giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông Hệ thống giáo dục chính quy này vượt xa yêu cầu phổ cập. Đối với trẻ khuyết tật, được giáo dục ở các cấp học cao hơn là cánh cửa hướng tới một cuộc sống đầy đủ và hiệu quả, tuy nhiên họ thường bị loại trừ khỏi các hệ thống này.
12. Lời nói đầu 9 Hình thức giáo dục không chính quy Hình thức giáo dục không chính quy bao gồm một loạt các sáng kiến giáo dục trong cộng đồng: học tập lấy nền tảng là gia đình, các chính sách, chương trình của Chính phủ và sáng kiến cộng đồng. Hình thức giáo dục này có xu hướng lấy mục tiêu là các nhóm yếu thế cụ thể và có những mục tiêu cụ thể. Đối với một số học viên, hình thức giáo dục không chính quy có thể linh hoạt và hiệu quả hơn so với hệ thống giáo dục chính quy bởi hệ thống giáo dục chính quy thường cứng nhắc và được đánh giá là không thể mang đến một chất lượng giáo dục toàn diện.Tuy nhiên, hình thức giáo dục không chính quy nên được coi là một sự bổ sung hơn là một sự thay thế đối với hệ thống chính quy hòa nhập. Đôi khi, hình thức giáo dục không chính quy lại được áp dụng một cách không phù hợp như một lựa chọn tốt thứ hai cho trẻ khuyết tật, điều này đã phủ nhận quyền lợi hợp pháp của các em đối với giáo dục chính quy. Học tập suốt đời Việc học tập suốt đời bao gồm tất cả việc học tập được thực hiện trong cuộc đời, đặc biệt là cơ hội học tập cho người lớn không nằm trong các thành tố khác. Việc học tập này được hiểu là kiến thức và kĩ năng cần thiết cho việc làm, khả năng đọc – viết của người lớn, và mọi hình thức học tập thúc đẩy sự phát triển và tham gia của một cá nhân vào xã hội. Đối với nhân tố này, đối tượng tập trung chủ yếu là người lớn thay vì trẻ em. HỘP 6 “Các quốc gia phải bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng đối với giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, dạy nghề, giáo dục người lớn và học tập suốt đời. Giáo dục là việc sử dụng các tài liệu, kỹ thuật và cách thức giao tiếp thích hợp. Các học sinh có nhu cầu hỗ trợ phải nhận được các biện pháp hỗ trợ, và những học sinh khiếm thị, khiếm thính hoặc vừa khiếm thính vừa khiếm thị phải được giáo dục với hình thức giao tiếp phù hợp nhất từ giáo viên – là những người thành thạo loại ngôn ngữ ký hiệu và chữ Braille.Việc giáo dục người khuyết tật phải đảm bảo thúc đẩy sự tham gia của họ vào xã hội, ý thức về nhân cách, phẩm giá và sự phát triển cá tính, khả năng và sự sáng tạo của họ”. (12) Quyền được giáo dục của người khuyết tật
13. Chăm sóc và giáo dục mầm non 11 Chăm sóc và giáo dục mầm non Giới thiệu Mầm non bao gồm giai đoạn từ sơ sinh cho đến năm tám tuổi (13). Mở rộng chăm sóc và giáo dục mầm non là một trong sáu mục tiêu giáo dục cho mọi người (EFA) (11). Chăm sóc và giáo dục mầm non bao gồm một loạt các hoạt động và cung cấp. Vì nhiều khía cạnh của chăm sóc mầm non nằm trong hợp phần y tế, do đó yếu tố này tập trung chủ yếu vào giáo dục mầm non và kết hợp với can thiệp sớm và việc cung cấp giáo dục trước khi vào mẫu giáo/ mầm non. Giáo dục mầm non rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển. Não con người phát triển đặc biệt nhanh chóng trong ba năm đầu đời (13), và nếu không nhận được sự kích thích đầy đủ trong giai đoạn này, phát triển sẽ bị chậm lại, đôi khi là mãi mãi. Những năm đầu đời mang lại một“cửa sổ cơ hội”để đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ về kỹ năng ngôn ngữ, khả năng xã hội, suy nghĩ và thể chất. Giáo dục mầm non gieo những hạt giống cho một xã hội toàn diện vì đây là nơi mà trẻ em khuyết tật cũng như trẻ em không bị khuyết tật có thể cùng học tập, chơi và phát triển. Giáo dục mầm non cũng tăng các cơ hội cho trẻ em hoàn thành giáo dục cơ bản và tìm cách thoát khỏi đói nghèo và bất lợi (13). Nhìn chung, do giáo dục mầm non thường không bắt buộc, nó linh hoạt hơn giáo dục tiểu học và đưa đến một cơ hội tuyệt vời để phối hợp với một loạt các bên liên quan: Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức trong lĩnh vực tư nhân và các tổ chức tôn giáo. Ở một huyện có hoàn cảnh khó khăn của Nepal, hơn 95% trẻ em tham gia chương trình chăm sóc và giáo dục mầm non đã tiếp tục học lên tiểu học, so với tỷ lệ 75% trong số các trẻ em không tham gia chương trình. Tỷ lệ đúp lại lớp 1 của những em tham gia là 1 trên 7 so với những em không tham gia, và chúng có số điểm trong các bài kiểm tra ở lớp 1 cao hơn đáng kể (14). HỘP 7 Thực hiện tốt giáo dục mầm non Nepal
14. 12 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC HỘP 8 Tại bang Gujirat, Ấn Độ, chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PHCNDVCĐ) tập trung vào trẻ em nằm trong độ tuổi tiểu học và được bắt đầu với quy mô nhỏ từ những năm 1980. Trẻ em khuyết tật thường ít có cơ hội học tập và trang bị những kinh nghiệm sống trong những năm đầu đời, nhưng những thứ các em nhận được trong những năm này rất quan trọng trong việc hỗ trợ một đứa trẻ nhận biết về thế giới, hình thành các mối quan hệ xã hội, phát triển các khái niệm và có được nền tảng giáo dục cần thiết cho cả cuộc đời mình. Ngày nay, trong nhiều chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng ở Gujarat không thể thiếu chăm sóc và giáo dục mẫu giáo. Chetna, một bé gái đến từ nông thôn của bang Gujarat, được các cán bộ của chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng phát hiện khi cô bé lên ba tuổi do em bị chậm phát triển, ví dụ như em thiếu khả năng kiểm soát đầu óc. Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng thu xếp cho Chetna vào khám bệnh ở một trung tâm sàng lọc và đánh giá cách xa làng em. Em được xác nhận là bị khiếm khuyết nặng về thính giác, thị giác và do những nguyên nhân trên, em gặp nhiều khó khăn trong nhận biết và vì thế em được cấp một giấy chứng nhận khuyết tật. Chetna luôn sống khép mình trong bốn bức tường ở nhà hoặc trong lòng mẹ, do đó chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và gia đình em phải đối mặt với những thách thức sau: nhu cầu của Chetna là gì? Nơi nào đáp ứng tốt nhất những nhu cầu này? Ai sẽ là người làm việc với em? Và họ làm việc với em như thế nào? Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã chuẩn bị một chiếc ghế đặc biệt do các thợ mộc địa phương đóng, và Chetna bước đầu ngồi trên chiếc ghế này trước hiên nhà mình, vì vậy cô bé không còn “vô hình” đối với cộng đồng và sự tương tác của em với gia đình và hàng xóm được cải thiện. Em được dạy các kỹ năng sống hàng ngày và đã được trang bị một thiết bị trợ thính và kính đặc biêt để khắc phục khả năng nhìn hạn chế của mình. Em cũng được dạy giao tiếp. Chetna giờ có thể giúp mẹ trong các bữa ăn, với việc rửa và làm sạch bát đĩa, và đi đến các cửa hàng địa phương. Cha mẹ em có thể giao tiếp với em và họ đã có một mối quan hệ tích cực và yêu thương. Chetna giờ đã tham gia các anganwadi (nhà trẻ) địa phương và đã trở thành thành viên trong một nhóm lớn hơn. Bọn trẻ chấp nhận em như bao đứa trẻ nào khác và giao tiếp với em theo cách của chúng. Em sử dụng các khả năng tương tự như những đứa trẻ khác và cũng nhận được các dịch vụ hỗ trợ từ chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, chương trình này đang hỗ trợ gia đình nhận được những trợ cấp an sinh xã hội và đăng ký cho Chetna vào hệ thống giáo dục bang như bao đứa trẻ khác. Cuộc sống mới ở Chetna Ấn Độ
15. Chăm sóc và giáo dục mầm non 13 Mục tiêu Mọi trẻ em khuyết tật có khởi đầu tốt nhất có thể trong cuộc sống và được hỗ trợ trong suốt quá trình phát triển trong một môi trường học tập toàn diện. Vai trò của Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PHCNDVCĐ) Vai trò của PHCNDVCĐ là xác định các gia đình có trẻ em khyết tật, tương tác và làm việc chặt chẽ với họ, và hỗ trợ trong việc xây dựng nền tảng cho mọi hoạt động trong cuộc sống của đứa trẻ. Kết quả mong đợi •Trẻ em có thêm cơ hội để tồn tại và có sức khỏe tốt. •Các kỹ năng về thể chất, xã hội, ngôn ngữ, nhận thức của mọi trẻ em được phát triển dựa trên tiềm năng tối đa của các em. •Giáo dục mầm non chính quy và không chính quy đều được hoan nghênh và dành cho tất cả trẻ em. •Trẻ em khuyết tật và những người hỗ trợ cho các em là một phần của gia đình và cộng đồng và sẽ nhận được sự hỗ trợ thích hợp. •Trẻ em học cách chơi cùng nhau, chấp nhận sự khác biệt giữa các em và giúp đỡ nhau. •Tác động của việc khuyết tật sẽ được giảm bớt và được bù đắp. •Trẻ em khuyết tật sẽ chuyển tiếp sang bậc học tiểu học một cách nhẹ nhàng với các bạn học của mình. HỘP 9 Tại Santo Tomas, El Sanvador, giám đốc của một trường tiểu học hòa nhập cho mọi trẻ tham gia chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại địa phương có một đứa con sinh ra sớm trước ba tháng và bị thiếu oxy. Bác sỹ đã nói với người mẹ rằng đứa trẻ có thể sẽ bị suy giảm trí tuệ hoặc có các khuyết tật khác. Thông qua kinh nghiệm của mình cùng với chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại địa phương, người mẹ biết đến tầm quan trọng của giáo dục mầm non, vì vậy cô đã đem con của mình đến tổ chức phục hồi chức năng của Chính phủ để đánh giá ban đầu và can thiệp sớm trong hai năm. Cả người mẹ và em bé đã học được rất nhiều và đứa trẻ đã vào học tại trường mẫu giáo địa phương khi lên 4 tuổi cùng với những đứa trẻ hàng xóm khác. Tạo một sự khởi đầu sớm El Salvador
16. 14 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC Các khái niệm chính Thời thơ ấu Thời thơ ấu đặt nền móng cho cuộc đời của đứa trẻ (5). Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cần phải hiểu rằng có nhiều cách hiểu khác nhau về những năm đầu đời của một đứa trẻ, phụ thuộc vào các truyền thống, đức tin/tôn giáo, văn hóa, cấu trúc của gia đình tại địa phương và cách tổ chức giáo dục tiểu học. Điều quan trọng là công nhận và đánh giá giá trị của sự đa dạng này. Sự phát triển của trẻ Sự phát triển của trẻ là quá trình học tập mà mỗi đứa trẻ phải trải qua để có thể làm chủ các kỹ năng quan trọng (các mốc phát triển) trong cuộc đời. Các nội dung chính trong sự phát triển của trẻ bao gồm: •Phát triển xã hội và cảm xúc, ví dụ mỉm cười hay giao tiếp bằng mắt; •Phát triển nhận biết (học tập), ví dụ như sử dụng tay hay mắt để khám phá môi trường và thực hiện những công việc đơn giản; •Phát triển khả năng nói và ngôn ngữ, ví dụ như giao tiếp bằng từ ngữ hoặc dấu hiệu; •Phát triển thể chất, ví dụ như đứng, ngồi, đi, chạy hay có khả năng sử dụng tay và các ngón tay để lấy đồ vật hoặc vẽ. Các mốc phát triển quan trọng là các kỹ năng mà một đứa trẻ sẽ đạt được theo một trật tự và khung thời gian ví dụ học cách đi là một mốc mà hầu hết mọi trẻ em học được từ khoảng 09 đến 15 tháng. Chậm phát triển là một thuật ngữ được sử dụng khi một đứa trẻ không thể đạt được mốc phát triển thích hợp với tuổi của mình. Điều này có thể xảy ra trong một hay nhiều các nội dung phát triển đã được liệt kê ở trên. Nếu chậm phát triển đượcxácđịnhsớmtrongcuộcsốngcủatrẻthìcácbiệnpháp cóthểthực hiệnnhằm mang lại các cơ hội học tập và một môi trường hỗ trợ khắc phục sự chậm phát triển này. Các cán bộ của chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cần đảm bảo rằng họ đang tập trung vào các thế mạnh của trẻ khuyết tật. Điều quan trọng là họ không quá nhấn mạnh vào các mốc phát triển của trẻ khuyết tật như là các vấn đề có thể phát sinh nếu những khái niệm trên được sử dung một cách quá cứng nhắc. •Khái niệm chậm phát triển được xác định dựa trên những gì bình thường. Do đó, việc này có thể dẫn đến định kiến và kỳ thị. •Trẻ khuyết tật không cần thiết phải theo một mô hình phát triển“bình thường”. Tuy nhiên, điều này sẽ không ngăn các em có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc miễn là các em được hòa nhập và hỗ trợ. •Thường thì các mốc quan trọng là nguyên tắc cơ bản và trên thực tế, nó rất đa dạng tùy thuộc vào văn hóa, giới tính, dân tộc và hoàn cảnh kinh tế, xã hội. Sự phát triển của trẻ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm y tế, chăm sóc, dinh dưỡng và giáo dục. Tuy vậy, cần tiếp cận sự phát triển của trẻ theo phương pháp đa ngành. Ví dụ, các chương trình cần kết hợp giữa dinh dưỡng và giáo dục đã chứng tỏ hiệu quả hơn các chương trình chỉ tập trung vào một trong hai khía cạnh này.(15).
17. Chăm sóc và giáo dục mầm non 15 Học tập và kích thích thông qua hoạt động và trò chơi Trẻ nhỏ học một cách tự nhiên và hiệu quả thông qua vui chơi và tham gia các hoạt động hàng ngày. Vui chơi không được biết tới trong nhiều nền văn hóa và trong nhiều bối cảnh, đặc biệt là ở những nơi nghèo đói cùng cực và những nơi mà các cộng đồng chỉ tập trung kiếm cho đủ ăn. Trong hoàn cảnh đó, vui chơi có thể được xem như một hoạt động vô nghĩa hoặc vô dụng. Học tập thông qua các hoạt động có thể là một phương pháp tiếp cận hiệu quả trong bối cảnh hạn chế về các nguồn lực và thời gian. Điều này liên quan tới cách trẻ em học tập khi chúng tham gia các hoạt động hữu ích hay sản xuất. Việc này bao gồm các hoạt động tự chăm sóc như là tắm rửa, mặc quần áo, ăn và giúp đỡ việc nhà hay làm các việc khác. Cán bộ của chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cần hiểu rõ những điểm sau: •Học tập thông qua vui chơi và/hay các hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ nhỏ, và đặc biệt là trẻ khuyết tật. Điều này giúp các em phát triển kỹ năng sống hàng ngày và có thể giảm ảnh hưởng do khiếm khuyết của các em. •Nhiều người tin rằng trẻ khuyết tật không thể vui chơi, đặc biệt là nếu các em không thể tự chơi. Đặc biệt, bố mẹ em có thể không hiểu những lợi ích của vui chơi hoặc có thể cảm thấy lo lắng quá mức hoặc cảm thấy xấu hổ khi mọi người biết đến tình trạng các con mình. •Vui chơi có thể được chuẩn bị trước hoặc không (chơi tự do) và có thể do các em khởi xướng hay với sự hỗ trợ của người lớn. •Đối với trẻ em khuyết tật nặng hoặc có nhiều khuyết tật khác nhau, các hoạt động vui chơi hay kích thích có thể đặc biệt quan trọng. Ngay cả khi có thể khó nhận thấy các tín hiệu về việc học tập nhưng điều đó không có nghĩa là các em không nhận được bất kỳ một lợi ích nào. •Bố mẹ có thể thực hiện quá nhiều hoạt động kích thích đối với con cái của họ, đặc biệt khi có quá nhiều áp lực xã hội để đạt được sự phát triển bình thường và các thành tựu trong học tập. Điều này hạn chế các cơ hội vui chơi của trẻ em và có thể gây hại cho sự phát triển về mặt xã hội và cảm xúc của các em. Các hoạt động phù hợp với lứa tuổi Không khó tìm thấy những đứa trẻ khuyết tật lớn tuổi tham gia giáo dục mầm non. Điều này có thể do nhiều nguyên do: các em có thể bị khuyết tật về trí tuệ hoặc chậm phát triển, nghĩa là các em phát triển các kỹ năng một cách chậm hơn; các em có thể bị gia đình che dấu hoặc bảo vệ quá mức và do đó, các em đã bỏ lỡ các cơ hội học mẫu giáo và/hoặc do trường tiểu học không tiếp nhận hay không chào đón các em. Nhìn chung, nên tôn trọng tuổi thực tế của trẻ em và tìm cách cung cấp phương pháp học phù hợp với tuổi trong một môi trường nhóm đồng đẳng. Tuy nhiên, đôi khi cũng cần có một sự thỏa hiệp. Nguyên tắc chỉ đạo là liệu có thể đáp ứng được những lợi ích tốt nhất cho trẻ em hay không.
18. 16 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC Lựa chọn và sự linh hoạt Mỗi đứa trẻ, mỗi gia đình, cộng đồng và văn hóa không giống nhau. Các cơ sở chính thức như các trường mầm non có thể phù hợp với trẻ này nhưng lại không phù hợp với những em khác. Chương trình hỗ trợ phục hồi chức năng tại cộng đồng có thể hỗ trợ các gia đình trong việc lựa chọn những hỗ trợ và môi trường và phản ứng một cách linh hoạt. Cần ưu tiên làm việc theo hướng cung cấp các quy định giáo dục mầm non hiện có hòa nhập và dễ tiếp cận. Chương tŕnh phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cũng có thể phối hợp với các gia đình để đảm bảo rằng lựa chọn của họ không nên dựa trên sự xấu hổ hay bao bọc quá mức mà là dựa trên những lợi ích tốt nhất đối với trẻ. Những lựa chọn này có thể cũng cần tôn trọng những quyền khác nhau của đứa trẻ ví dụ như quyền được sống trong gia đình và cộng đồng của chính mình. HỘP 10 Trong một khu vực của Mê-hi-cô, gần Culiancan, các gia đình bản địa chuyển xuống từ các ngôi làng trên núi 4 tháng trong năm và ở lại những khu trại của các nhà máy nông nghiệp. Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã đàm phán với những chủ sở hữu nhà máy để xây dựng trung tâm giáo dục mầm non trong mỗi khu trại và các bà mẹ được phép tham gia cùng với những đứa con khuyết tật của họ vào những bài tập can thiệp sớm hai lần một tháng. Những đứa trẻ lớn hơn (trên bốn tuổi) được đưa vào các trung tâm chăm sóc ban ngày trong các nhà máy, với sự hỗ trợ của các cán bộ chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Ngày nay, gia đình của những trẻ khuyết tật mỗi năm đều trở về cùng một nơi để chăm sóc tốt cho những đứa trẻ và học cách hỗ trợ các em phát triển trong những năm đầu đời. Họ đem những kiến thức có được trở về làng và truyền đạt lại cho những gia đình khác. Các trung tâm giáo dục mầm non Mê-hi-cô Các hoạt động đề xuất Xác định các nhu cầu của lứa tuổi mầm non Thường thì tiếp cận theo dõi kép là cách tốt nhất để thúc đẩy hòa nhập và việc này có thể được áp dụng cho chăm sóc và giáo dục mầm non. Theo dõi kép có thể được thực hiện như sau: 1.Tập trung vào hệ thống: xác định tình hình chăm sóc và giáo dục mầm non tại cộng đồng hiện tại và tìm hiểu những đối tượng liên quan và các đối tượng không liên quan, thế mạnh, điểm yếu của họ là gì? Việc này được phối hợp với gia đình, những người đứng đầu cộng đồng, những nhân viên y tế và giáo viên và bất kỳ người khác nào có liên quan. 2.Tập trung vào trẻ em: phát triển hệ thống xác định và hỗ trợ trẻ em có nguy cơ bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ hay những người có thể cần tới hỗ trợ bổ sung. Điều này thường được gọi là xác định sớm.
19. Chăm sóc và giáo dục mầm non 17 Thông thường người ta hay chú trọng vào“theo dõi đơn lẻ”, trong đó chỉ hướng đến mục tiêu là các cá nhân. Điều này dẫn đến việc chỉ có ở một vài trẻ em hưởng lợi và hệ thống thì vẫn không tiếp cận được. Chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng có thể tập trung cả vào hệ thống và trẻ em thông qua: •Liên lạc và làm việc với các nhân viên y tế để đảm bảo trẻ khuyết tật nhận được các chăm sóc y tế thích hợp (Xem thêm hợp phần y tế); •Đảm bảo rằng các chương trình xác định sớm hỗ trợ trẻ khuyết tật và gia đình họ; •Phối hợp chặt chẽ với gia đình để đảm bảo rằng trẻ em sinh ra bị khuyết tật hay những người giúp các em phát triển ở giai đoạn mẫu giáo, được xác định càng sớm càng tốt; •Hỗ trợ bố mẹ trong việc thích ứng một cách nhanh chóng khi xác định được những khiếm khuyết, giới thiệu các em tới các cơ sở y tế và đồng hành với cha mẹ các em trong những buổi làm việc; •Giúp tạo ra một cách tiếp cận tích cực hướng tới trẻ khuyết tật, tập trung vào khả năng và năng lực học tập của các em, theo cách tiếp cận này, những can thiệp sớm bao gồm xác định các rào cản đối với việc học tập và phát triển của các em, và phối hợp với gia đình các em, các ngành khác nhau và cộng đồng để vượt qua các rào cản này; • Tác động tới các chính sách của chính quyền địa phương để giúp cho các cơ sở giáo dục hiện có dễ tiếp cận hơn và chấp nhận các em khuyết tật. Việc chăm sóc phải được thực hiện mà không phải để áp đặt các tiêu chuẩn cứng nhắc về những gì gọi là bình thường ở một đứa trẻ đang phát triển theo cách khác biệt. Các cán bộ của chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng nên tránh việc tạo ra sự lo lắng cho bố mẹ và trẻ em khi không đạt được các mốc phát triển. Đôi khi, kiểm tra sức khỏe có thể làm tăng thêm việc loại trừ hơn là cung cấp một phương thức để tìm ra cách hỗ trợ các em. Đào tạo cả các nhân viên y tế trong chương trình phục hồi chức năngdựavàocộngđồngcóthểhỗtrợlàmtăngnhậnthức,nângcaokiếnthức củangười khuyết tật và tránh sự loại trừ tiềm năng. HỘP 11 Tại một quốc gia ở Đông Nam Á, trẻ em dưới 5 tuổi được khám sức khỏe định kỳ, tuy nhiên những trẻ em được xác định là khuyết tật không nhận được các hỗ trợ bổ sung. Các giáo viên mầm non ngại chấp nhận các em vào lớp của mình vì ba lý do: họ có một chương trình đào tạo nghiêm ngặt và do đó đứa trẻ cần thêm thời gian, họ có thể mất điểm thưởng lương nếu trẻ không tiến bộ hay không tăng cân; và cuối cùng, chỉ những trẻ có đủ “sức khỏe” mới được đăng ký, còn trẻ khuyết tật được xem như là bị bệnh. Các rào cản với giáo dục mầm non Đông Nam Á
20. 18 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC Hỗ trợ học tập sớm tại nhà Sự tham gia của gia đình Việc học tập và chăm sóc sớm bắt đầu trong gia đình, do đó cần có sự tham gia của gia đình. Cha mẹ đóng một vai trò quan trọng trong những năm đầu của cuộc đời, đặc biệt là các bà mẹ, vì họ là người có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của con em mình thông qua thái độ và hành vi của chính họ, ví dụ như cho con bú và thời gian vui chơi với con cái của mình. Không nên bỏ qua vai trò của người bố và phải khuyến khích họ. Hoạt động đề xuất bao gồm: •Hỗ trợ các gia đình trao đổi các kiến thức về con cháu giữa cha mẹ/anh chị em/ông bà, với các giáo viên và nhân viên y tế. Gia đình có thể cung cấp một nguồn thông tin quan trọng để giúp các nhân viên PHCNDVCĐ hiểu biết thêm về đối tượng. •Hỗ trợ giáo dục và đào tạo cho các gia đình để giúp họ có thể chăm sóc và tạo cơ hội học tập tích cực cho con em bị khuyết tật của mình. •Hỗ trợ các gia đình tiếp cận đào tạo đặc biệt nếu cần thiết, ví dụ học ngôn ngữ ký hiệu để tạo điều kiện giao tiếp với trẻ khiếm thính, hoặc dịch vụ đặc biệt, ví dụ như hoạt động trị liệu, vật lý trị liệu hoặc âm ngữ trị liệu để hỗ trợ phát triển kỹ năng. •Xây dựng các kế hoạch học tập cá nhân cho mỗi trẻ khuyết tật với sự giúp đỡ của gia đình, sử dụng kiến thức cá nhân cũng như kiến thức của nhân viên PHCNDVCĐ về phát triển và đánh giá trẻ. Có thể chia sẻ các kế hoạch này với các giáo viên nếu cần. •Hình thành nhóm tự lực cho cha mẹ của trẻ khuyết tật, hoặc khuyến khích cha mẹ tham gia các nhóm hoặc các hiệp hội hiện có. Một số bậc cha mẹ là thành viên của các tổ chức người khuyết tật. •Tạo mạng lưới hỗ trợ và liên kết giữa các thành viên gia đình, cộng đồng và người hỗ trợ nguồn ở địa phương. •Giải quyết các vấn đề về giới có thể hiện hữu trong gia đình, ví dụ như khuyến khích các gia đình cho phép các bé gái khuyết tật có cơ hội được học tập.
21. Chăm sóc và giáo dục mầm non 19 HỘP 12 Ở El Alto, Bolivia, chương trình PHCNDVCĐ đã tạo điều kiện hòa nhập cho các trẻ em khuyết tật tại các trường học địa phương. Một bé trai sáu tuổi với hội chứng Down gần đây đã bắt đầu đi học mẫu giáo tại một trường học địa phương. Khi cậu bé bắt đầu đi học, cha của cậu đã rất lo lắng. Ông đưa và đón cậu ở trường hàng ngày, và gặp các giáo viên của lớp và hiệu trưởng của trường. Hiệu trưởng rất cảm kích trước sự quan tâm của người cha trong việc học của con trai mình và ông đã mời người cha đến để nói chuyện cùng với hội phụ huynh học sinh để khuyến khích các vị phụ huynh khác tham gia giáo dục con cái và nâng cao nhận thức của họ về việc hoà nhập. Sự can thiệp của người cha vào việc học của con trai mình Bolivia Thúc đẩy các hoạt động tại nhà Tạo môi trường hỗ trợ học tập cho trẻ tại nhà là một hoạt động quan trọng cho các chương trình PHCNDVCĐ. Thúc đẩy hoà nhập trong gia đình thông qua việc xây dựng sự tự tin và các kỹ năng và tạo điều kiện kích thích phát triển sớm cho trẻ. Các hoạt động đề xuất đối với các nhân viên PHCNDVCĐ bao gồm: •khuyến khích các bậc phụ huynh thúc đẩy sự tham gia của con cái mình trong các hoạt động học tập thông qua hoạt động một cách tích cực và sáng tạo; •chỉ ra cách sử dụng những đồ vật hàng ngày có trong gia đình và tại môi trường địa phương cho các hoạt động vui chơi, và làm thế nào để làm các đồ chơi như vậy tại nhà, thậm chí trẻ bị khuyết tật nặng không phải lúc nào cũng cần có đồ chơi được làm bởi chuyên gia. •chỉ ra cách các thành viên gia đình có thể tạo ra các thiết bị hỗ trợ, chẳng hạn như thiết bị hỗ trợ chỗ ngồi lưu động từ các vật liệu ở địa phương; •chăm sóc không chỉ tập trung hoàn toàn vào khuyết tật hay nhu cầu về mặt thể chất của trẻ, ví dụ, một đứa trẻ có khuyết tật về mặt thể chất có thể được hỗ trợ nhiều đầu vào, đào tạo và giáo dục liên quan đến vận động, mà cần phải phát triển cả kỹ năng xã hội như khả năng chơi và học cùng người không có khuyết tật. Nhiều nguồn lực hữu dụng có sẵn có thể được các thành viên gia đình sử dụng để hỗ trợ trong việc tạo ra một môi trường học tập mang tính hỗ trợ. Một số ví dụ bao gồm: •Trẻ em khuyết tật trong làng (16); •Cẩm nang của Tổ chức Y tế thế giới-WHO: Đào tạo tại cộng đồng cho người khuyết tật (17); •Hãy giao tiếp: một cuốn cẩm nang cho những người làm việc với trẻ gặp khó khăn trong giao tiếp (18); •Hệ thống vận chuyển, bao gồm việc huấn luyện gia đình cách chia các công việc đơn giản như việc mặc quần áo, ăn uống, vệ sinh và tắm rửa của trẻ thành các bước nhỏ. Điều này giúp trẻ em, ngay cả với những trẻ bị khuyết tật nặng nhất, cảm nhận sự tiến bộ và thành công (19).
22. 20 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC HỘP 13 Tại một trường mầm non, một giáo viên đã được đào tạo để hòa nhập trẻ em khuyết tật phát hiện rằng có ba đứa trẻ khuyết tật đã không đi học. Giáo viên đó đã đến tận nhà để trao đổi với các gia đình. Cô đã xây dựng một khóa đào tạo từ xa cho giáo dục tại nhà, và hiện giờ các bậc phụ huynh tới tham gia đào tạo và được hỗ trợ, nhờ đó họ có thể dạy cho con cái của mình ngay tại nhà. Từ đó những đứa trẻ cũng đã đến với trường học thường xuyên hơn. Cung cấp giáo dục tại nhà Hỗ trợ học tập trong cộng đồng Các hình thức khác nhau của cơ hội giáo dục mầm non có ngay trong cộng đồng, ví dụ: các nhóm vui chơi, các trung tâm trẻ em ban ngày, và các nhóm bà mẹ và trẻ em, các nhóm tự lực của phụ nữ với nhà trẻ (chăm sóc trẻ). Việc giúp đỡ trẻ em khuyết tật trong cộng đồng có thể được thúc đẩy thông qua các hoạt động đơn giản như: • Khuyến khích các gia đình cho trẻ tham gia các hoạt động vui chơi trong cộng đồng, ví dụ: các hoạt động tôn giáo/ dựa vào đức tin và xã hội, mua sắm; •Khuyến khích các gia đình tạo điều kiện cho trẻ vui chơi bên ngoài ngôi nhà, với sự hỗ trợ của cộng đồng trong việc thiết kế chỗ ngồi đặc biệt hoặc các thiết bị hỗ trợ nếu cần thiết. •Khuyến khích trẻ em khuyết tật và không khuyết tật chơi cùng nhau – việc học hỏi lẫn nhau giữa các anh chị em và giữa trẻ em hàng xóm là rất quan trọng và hữu ích; •Tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc tạo ra môi trường dễ tiếp cận và thân thiện hơn bao gồm trường mầm non và sân chơi tại địa phương (thông qua việc cung cấp đường dốc, nhà vệ sinh, tăng ánh sáng, cải thiện an toàn và vệ sinh). Giúp xây dựng các trường mầm non hòa nhập Các chương trình PHCNDVCĐ cần phải tạo quan hệ đối tác trong lĩnh vực giáo dục để hỗ trợ một bước chuyển biến hướng tới việc học tập một cách linh hoạt lấy trẻ làm trung tâm . Nên tập trung vào việc tạo điều kiện cho tất cả trẻ em được học tập hiệu quả. Các chương trình PHCNDVCĐ có thể giúp đào tạo giáo viên mẫu giáo/mầm non để tạo ra môi trường học tập đáp ứng được các phương thức và tốc độ học tập đa dạng của trẻ. Các hoạt động để khuyến khích bao gồm: • Học tập thông qua việc vui chơi, bao gồm hoạt động vui chơi có tổ chức và vui chơi tự do; • Làm việc theo nhóm nhỏ; •Tạo ra các đồ dùng học tập và vui chơi từ các nguyên vật liệu địa phương; •Tạo ra môi trường dễ tiếp cận cho trẻ em, ví dụ: đường dốc, đảm bảo nhà vệ sinh có thể tiếp cận được, sử dụng màu sắc để làm nổi bật các khu vực khác nhau cho trẻ khiếm thị, và tuân thủ các hướng dẫn của Chính phủ về tính tiếp cận •Tận dụng sự trợ giúp từ các thành viên gia đình và tình nguyện viên như sự hỗ trợ trong lớp học, đảm bảo rằng sự chăm sóc, hỗ trợ dành cho cả lớp chứ không chỉ dành riêng cho trẻ khuyết tật;
23. Chăm sóc và giáo dục mầm non 21 •Quan sát trẻ em và xem cách các em tham gia và học tập, sau đó cùng nhau thảo luận tìm ra các điểm mạnh của trẻ và đặt ra mục tiêu học tập có thể đạt được và có liên quan đến cuộc sống của trẻ. HỘP 14 Trong một trương mầm non ở Zazibar, các giáo viên sử dụng ngôn ngữ ký hiệu cơ bản với một cậu bé bị khiếm thính. Cậu bé sử dụng các ngón tay mình để đếm số Ả Rập, và giao tiếp bằng cách chỉ vào các bức tranh. Các giáo viên ở đây đã sáng tác ra một bài hát với những hành động cho phép cậu bé cùng với cả lớp bằng ngôn ngữ kí hiệu. Cậu bé hiện không hề quen biết bất kỳ một người lớn khiếm thính nào và ngôn ngữ ký hiệu ở Zanzibar còn chưa phát triển tốt, nhưng đây mới chỉ là một sự khởi đầu. Hiệu trưởng của trường tin rằng ngôn ngữ ký hiệu của cậu bé đang được cải thiện và cậu đã học được rất nhiều kỹ năng xã hội. Bài hát về niềm hy vọng của một cậu bé Zanzibar Trong một số nền văn hóa và bối cảnh xã hội, các cơ sở giáo dục mầm non hiện đang tồn tại theo hình thức chính quy dựa trên mô hình giáo dục tiểu học chứ không xuất phát từ nhu cầu thực sự của trẻ nhỏ. Đặc trưng của những trường mầm non này là sử dụng phương pháp giảng dạy lấy giáo viên làm trung tâm, thiếu cơ hội được vui chơi, cách bố trí lớp học máy móc, học vẹt (học thuộc lòng bằng cách đọc đi đọc lại nhưng không thực sự hiểu vấn đề), các kỹ năng mang tính hàn lâm và các buổi học kéo dài. Điều này là không phù hợp đối với đại đa số trẻ em, chứ không riêng gì với trẻ em khuyết tật. Thay đổi lâu dài trong hệ thống giáo dục rõ ràng là trách nhiệm của các cơ quan giáo dục của Chính phủ. Tuy nhiên, nhân viên PHCNDVCĐ có thể hướng tới việc chuyển đổi môi trường giáo dục mầm non, phương pháp và chương trình giảng dạy để tất cả trẻ em có thể học tập một cách hiệu quả hơn. Chương trình PHCNDVCĐ là nhân tố thiết yếu đảm bảo bảo sự hòa nhập của trẻ khuyết tật trong các trường mầm non. Chương trình này giúp đảm bảo rằng trẻ tiếp cận được các thiết bị hỗ trợ và các dịch vụ phục hồi chức năng thích hợp. PHCNDVCĐ cũng có thể gửi các chuyên gia đến các trường mầm non để giải quyết bất kỳ mối quan tâm đặc biệt nào, và có thể chứng minh rằng các chiến lược đơn giản sẽ đem lại lợi ích cho tất cả mọi người, thông qua viêc sử dụng nguồn lực và người dân địa phương.Từ đó, giáo viên mầm nonđượctraoquyềnđểtrởthànhnhữngngười ủng hộ cho phương pháp tiếp cận toàn diện và lấy trẻ làm trung tâm.
24. 22 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC HỘP 15 Anhui là một tỉnh nghèo ở Trung Quốc với dân số 56 triệu người. Cách đây không lâu, việc học tập ở trường mầm non buộc trẻ phải ngồi thành hàng, các giáo viên trực tiếp dạy những bài giảng dài và yêu cầu trẻ vẫn phải ngồi yên một chỗ. Học thành công hay thất bại đều được coi như trách nhiệm của trẻ. Hệ thống này ấn tượng ở chỗ là trường có thể giúp một số lượng lớn trẻ nhỏ tiếp cận giáo dục – nhiều trường mẫu giáo đã có hơn 1.000 trẻ với đội ngũ giáo viên tận tâm và làm việc chăm chỉ. Để đảm bảo rằng trẻ em có thể học tập một cách chủ động, một chương trình thí điểm đã khuyến khích những thay đổi như sau: làm việc thường xuyên theo nhóm nhỏ; hoạt động học tập thông qua vui chơi; sử dụng công cụ hỗ trợ dạy học được làm từ vật liệu địa phương, đào tạo giáo viên thường xuyên; phương pháp tiếp cận trên toàn thể đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình, giáo viên, các nhà quản lý và cộng đồng thông qua việc thành lập các ủy ban địa phương; và hòa nhập của hai trẻ có khó khăn trong học tập trong mỗi lớp học. Kết quả thu lại thật sự ấn tượng: cơ quan giáo dục thừa nhận rằng điều này đã cải thiện giáo dục cho tất cả trẻ em, đã có một sự thay đổi thái độ từ phía các quan chức giáo dục- họ nhận thấy rằng đây không phải là một “lựa chọn giá rẻ” mà là một “lựa chọn tốt hơn” so với sự kỳ thị; trẻ khuyết tật đã chuyển tới học tại các trường tiểu học và tiếp tục thành công. Khám phá những lựa chọn khác nhau của thành công Trung Quốc Đảm bảo các dịch vụ chuyên gia có sẵn và dễ tiếp cận Nhiều trẻ em khuyết tật có thể được hòa nhập ngay lập tức trong môi trường giáo dục mầm non linh hoạt và lấy trẻ làm trung tâm. Đôi khi, cần phải cung cấp chuyên gia để chuẩn bị cho trẻ khuyết tật hòa nhập trong các môi trường chính quy. Ví dụ, trẻ khiếm thính sẽ cần phải học ngôn ngữ ký hiệu, trẻ em khiếm thị sẽ cần phải học các kỹ năng vận động và chữ nổi Braille, và trẻ em điếc và mù sẽ cần phải học các kỹ năng vận động và chữ nổi Braille. Nhân viên PHCNDVCĐ có thể đảm bảo rằng trẻ em khuyết tật được tiếp cận với các nguồn lực chuyên gia và đảm bảo duy trì các mối liên kết chặt chẽ giữ các nhà cung cấp chuyên gia và cơ sở giáo dục chính quy. Sự tham gia của người lớn và trẻ em khuyết tật Khuyến khích sự tham gia trực tiếp của người khuyết tật trong các hoạt động giáo dục và chăm sóc mầm non là điều thực sự cần thiết, ví dụ các hình mẫu, chuyên gia tư vấn, giáo viên, các nhà quản lý và những người ra quyết định. Ghi nhớ rằng nguyên tắc“tất cả những gì liên quan đến chúng tôi thì đều phải có sự tham gia của chúng tôi”áp dụng một cách bình đẳng trong quá trình làm việc với trẻ em những năm đầu đời. Tất cả các hoạt động đề xuất sẽ phù hợp và hiệu quả hơn nếu người khuyết tật được tham gia. Những trẻ em khuyết tật lớn tuổi hơn có thể hỗ hỗ trợ và khuyến khích và đưa ra những ý tưởng sáng tạo để đáp ứng các nhu cầu của trẻ khuyết tật nhỏ tuổi hơn.
25. Chăm sóc và giáo dục mầm non 23 HỘP 16 Ở Coimbatore, Ấn Độ, một trung tâm can thiệp sớm và trường mẫy giáo đã được mở ra dành cho người khiếm thính. Một chuyên gia làm việc trong trung tâm đã tiến hành một cuộc khảo sát nhưng lại tìm được rất ít trẻ em khiếm thính ở khu vực địa phương. Tuy nhiên, hai tháng sau khi mở cửa, hai nhân viên khiếm thính của PHCNDVCĐ tham gia vào dự án đã sử dụng mạng lưới và các nhóm bạn bè của họ và tìm được 6 em học sinh khiếm thính nặng hay trầm trọng, tất cả đều chưa đến năm tuổi. Những người bị khiếm thính thậm chí biết chỗ ở của những thành viên mới nhất trong cộng đồng khiếm thính của họ. Trong vòng sáu tháng sau đó, chương trình này đã mở rộng lên 13 học sinh, và tới năm tiếp theo, đã có nhiều học sinh khiếm thính hơn đăng kí tham gia. Hầu hết các trẻ em. này được giới thiệu bởi những người khiếm thính lớn tuổi hơn, hiện vẫn thích ghé qua trường mầm non này và làm tình nguyện. Đem cộng đồng khiếm thính lại gần nhau hơn Ấn Độ Triển khai đào tạo và nâng cao nhận thức Công tác đào tạo và nâng cao nhận thức là cần thiết đối với nhiều nhóm khác nhau, nó cần phải linh hoạt về hình thức và nội dung, và phải có sự tham gia của người khuyết tật cũng như các tổ chức của người khuyết tật trong việc xây dựng và triển khai. Nâng cao nhận thức trong cộng đồng, tập trung vào vấn đề khuyết tật từ phương diện mô hình xã hội và trong các sáng kiến về ​​mầm non là điều thiết yếu. Nhân viên PHCNDVCĐ cũng cần được đào tạo về các phương pháp tiếp cận và can thiệp mầm non. Nhân viên mầm non (giáo viên, nhân viên và các cán bộ quản lý trong các nhà trẻ, trường mầm non, nhóm vui chơi, vv) cần phải tìm hiểu về vấn đề hỗ trợ người khuyết tật và sự hòa nhập. Các mối liên kết cần được tạo dựng với những người có thể cung cấp hỗ trợ về lĩnh vực tài chính hoặc kỹ thuật. Các tổ chức phi Chính phủ trong nước và quốc tế thường là một nguồn cung cấp hỗ trợ hữu dụng.
26. 24 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC HỘP 17 Tại tỉnh Hambantota ở Sri Lanka, người ta đã xác định được một số trẻ em khuyết tật ở lứa tuổi mầm non. Trong quá trình lập bản đồ các dịch vụ hiện có trong huyện, người ta cũng đã xác định được một tổ chức phi Chính phủ quốc tế đang thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Tổ chức phi Chính phủ này đã bày tỏ sự quan tâm đến việc hòa nhập trẻ em khuyết tật trong các trường mẫu giáo của họ, tuy nhiên họ cho biết các giáo viên ở trường không có kỹ năng để làm việc này. Chương trình PHCNDVCĐ đã xác định các nguồn lực ở Sri Lanka để cung cấp đào tạo về giáo dục hòa nhập và tài trợ cho các giáo viên mầm non được tài trợ từ tổ chức phi Chính phủ đó. Sau khóa đào tạo, các giáo viên và nhân viên PHCNDVCĐ đã gặp các phụ huynh và trẻ nhỏ, và họ cùng nhau xây dựng một kế hoạch hòa nhập. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để đảm bảo rằng cha mẹ là một phần của quá trình hòa nhập của trẻ, giao cho họ trách nhiệm giúp cho kế hoạch thành công. Những trẻ em đang theo học ở các trường mầm non và cha mẹ của các em cũng đã được bổ trợ nhận thức về các vấn đề khuyết tật và được tham gia vào quá trình hòa nhập. Tàitrợchogiáoviênđểthamgiađàotạotronggiáodụchòanhập Sri Lanka Giải quyết đói nghèo Trong tình trạng đói nghèo, khi các gia đình và cộng đồng đang đấu tranh để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ, thì trẻ em được nhìn nhận hoặc là người giúp cho gia đình tồn tại hoặc là một gánh nặng do sự khan hiếm các nguồn lực. Trẻ bị đói và bệnh tật do nghèo khổ cảm thấy khó khăn để có thể học tập và vui chơi. Do đó, nhân viên PHCNDVCĐ cần phải giải quyết đói nghèo song song với thúc đẩy giáo dục mầm non (xem thêm Hợp phần sinh kế). Một số hoạt động đề xuất như sau: •Giúp các gia đình hiểu rằng nếu trẻ em bị khuyết tật được hỗ trợ trong việc học các kỹ năng cơ bản và tự chăm sóc bản thân càng sớm, trẻ sẽ càng trở nên độc lập hơn và do đó sẽ càng ít bị coi là một gánh nặng hơn. •Tập trung vào các hoạt động phù hợp với sinh hoạt hàng ngày của gia đình, và miêu tả cách trẻ học hỏi thông qua các hoạt động này để các em trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống gia đình.Trong hoàn cảnh nghèo đói cùng cực, các gia đình và đặc biệt là các bà mẹ cần được hỗ trợ thêm chứ không phải là được trao thêm trách nhiệm, do đó, thái độ của nhân viên PHCNDVCĐ là rất quan trọng. •Tạo điều kiện cho sự phát triển của các nhóm tự lực cho phụ nữ và cha mẹ của trẻ khuyết tật cũng như các tổ chức của người khuyết tật (xem hợp phần tăng cường quyền năng). •Giúp các gia đình tiếp cận được các khoản tài trợ từ Chính phủ, hỗ trợ từ phía các tổ chức phi Chính phủ, các nhà tài trợ và các doanh nghiệp địa phương, và các nguồn hỗ trợ và tài trợ khác. •Giúp đảm bảo rằng các chương trình mầm non được linh hoạt và phù hợp với những hoàn cảnh khác nhau của các gia đình nghèo, trong đó có những gia đình có con bị khuyết tật nặng hoặc có nhiều khuyết tật.
27. Chăm sóc và giáo dục mầm non 25 HỘP 18 Ở Mông Cổ, các nhà trẻ “Ger” cung cấp giáo dục mầm non cho con em của người dân di cư hoặc người chăn nuôi. Các trường học này lưu động và hoạt động quanh năm theo nhu cầu của các cộng đồng vùng xa xôi hẻo lánh. Các nhà trẻ tiếp cận những gia đình không có khả năng chi trả tiền quần áo, các bữa ăn hay việc đi học đầy đủ cho con cái của họ. Chương trình giảng dạy và phương pháp tiếp cận linh hoạt và đáp ứng hình thức đi học bán thời gian. Cha mẹ và cộng đồng giúp đỡ tu sửa và vận chuyển các trường mầm non lưu động vì họ đánh giá cao những trường này. Số lượng trẻ em đến học hàng ngày trong chương trình mầm non đã tăng lên và trẻ em thiệt thòi tham gia tốt hơn ở các trường tiểu học địa phương. Các trường học di động mang lại giáo dục Mông Cổ Vận động hành lang và ủng hộ việc hòa nhập Đểquátrìnhhòanhậpcóthểdiễnra,hệthốngcầnphảithayđổi,nhưngcácchươngtrình PHCNDVCĐ không thể tự mình chuyển đổi hệ thống giáo dục. Nhân viên PHCNDVCĐ cần phải xác định các đối tác và đồng minh.Trong quan hệ đối tác với các bên liên quan khác (cấp quốc gia và địa phương), chương trình PHCNDVCĐ có thể hỗ trợ cung cấp các cơ sở giáo dục mầm non. Các nhà cung cấp dịch vụ thường đều biết về sự tồn tại của các chính sách hay thậm chí là pháp luật về hòa nhập, tuy nhiên họ lại không nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ ngân sách để thực hiện những luật pháp và chính sách này. Các chương trình PHCNDVCĐ nên vậng động hành lang để tăng cường sự hoà nhập tại các cơ sở sẵn có hơn là tạo thành các cơ sở riêng biệt. Chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp, xung đột và tị nạn Sức khỏe của trẻ nhỏ là điều tối cần thiết trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp, xung đột hoặc thiên tai nào.Vì rất linh hoạt nên giáo dục mầm non là một trong số ít những hình thức giáo dục có thể tồn tại trong những trường hợp này.Vui chơi có thể giúp duy trì và phát huy tốt điều này. Các chương trình PHCNDVCĐ có thể giúp đảm bảo để có được không gian thân thiện với trẻ và mang lại cơ hội cho các hoạt động vui chơi, điều này thường đồng nghĩa với việc hợp tác với các cơ quan Liên hợp quốc cũng như các tổ chức phi Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ (xem chương bổ sung về PHCNDVCĐ và các cuộc khủng hoảng nhân đạo).
28. Giáo dục tiểu học 27 Giáo dục tiểu học Giới thiệu Giáo dục tiểu học thường bắt đầu ở lứa tuổi sáu hoặc bảy và tiếp tục cho đến khi trẻ bước vào những năm đầu của thời niên thiếu. Giáo dục tiểu học là cửa ngõ tiến tới cấp độ giáo dục cao hơn và là một ưu tiên cao trong bối cảnh của sự phát triển. Đạt được giáo dục tiểu học phổ cập đứng thứ hai trong số các Mục tiêu Phát triểnThiên niên kỷ. Mục tiêu là đến năm 2015, trẻ em ở khắp mọi nơi, trẻ trai cũng như trẻ gái, có thể hoàn thành toàn bộ chương trình giáo dục tiểu học (7). Để đạt được mục tiêu này, hệ thống trường học cần phải đào tạo giáo viên, xây dựng phòng học, nâng cao chất lượng giáo dục, loại bỏ các rào cản của sự tham gia, ví dụ như các loại phí và thiếu phương tiện vận chuyển, và giải quyết các mối quan ngại của các bậc cha mẹ đối với sự an toàn của con cái của họ (20). Người ta cho rằng mục tiêu này sẽ không thể đạt được nếu không hoà nhập trẻ em khuyết tật. UNESCO hiện đang ước tính rằng hơn 90% trẻ em khuyết tật ở các nước có thu nhập thấp không được đi học (6). Trong số đó, rất nhiều trẻ đã bỏ học trước khi hoàn thành giáo dục tiểu học còn những trẻ khác lại thường không đi học hoặc tham gia thực sự. Giáo dục tiểu học phải hoà nhập và dễ tiếp cận cho tất cả. Các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục công không được phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính, dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm, khuyết tật, hoặc tình trạng kinh tế – xã hội (5). Giáo dục tiểu học là một quyền cơ bản, và Công ước về Quyền của Người khuyết tật, Điều 24, nói rằng“… trẻ em khuyết tật không nằm ngoài giáo dục miễn phí và bắt buộc …” (4). Giáo dục tiểu học phải hoà nhập, cung cấp giáo dục có chất lượng và tiếp cận bình đẳng, và có sẵn trong cộng đồng địa phương đối với trẻ em khuyết tật.
29. 28 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC HỘP 19 Tại huyện Douentza của Mali, một trong những vùng nghèo nhất trên thế giới, một cộng đồng địa phương đã ưu tiên giáo dục cho trẻ. Họ muốn ngôi làng của mình có trường học với giáo trình giảng dạy phù hợp với cuộc sống tại địa phương để chuẩn bị cho con trẻ của mình một cuộc sống và công việc phù hợp trong cộng đồng. Các cơ quan tài trợ đã tham gia đào tạo và hỗ trợ và đã quy định rằng Ủy ban Trường học sẽ bao gồm một phụ nữ chịu trách nhiệm về việc nhập học cho trẻ khuyết tật và nhập học cho các bé gái. Cộng đồng đã tự xây trường với sự hỗ trợ tài chính từ chính các bậc cha mẹ, và điều này thúc đẩy tính tự chủ và trách nhiệm của họ. Tổ chức phi Chính phủ hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn về khuyết tật đã tiến hành hoạt động nâng cao nhận thức về các vấn đề khuyết tật và hỗ trợ ủy ban trường học xác định các trẻ có thể được nhập học. Một số trẻ cần phải có xe ba bánh và tổ chức phi Chính phủ đã hỗ trợ điều này. Nhà hát và các nhóm nhạc địa phương cũng giúp nâng cao nhận thức về quyền được giáo dục của các em gái và trẻ bị khuyết tật. Các nhà lãnh đạo trong cộng đồng đã rất ngạc nhiên khi phát hiện rằng có khá nhiều em nhỏ bị khuyết tật trong ngôi làng của mình và cộng đồng đã tự phối hợp với các thành viên của gia đình để hỗ trợ các em phát triển và được hoà nhập. Trước đó, khuyết tật không được coi là một vấn đề cần giải quyết bởi vì cộng đồng không biết có những giải pháp để xử lý việc này. Ban đầu, các thành viên của cộng đồng và các giáo viên nghi ngại về việc hoà nhập trẻ khuyết tật. “Để bắt đầu, chúng tôi đã cam kết để hoà nhập cho trẻ khuyết tật, nhưng chúng tôi cũng không thực sự tin tưởng rằng chúng có thể đến trường. Bây giờ, chúng tôi đã tận mắt nhìn thấy điều này và chúng tôi đã chuyển từ cam kết sang niềm tin!”. Người quản lý chương trình địa phương đã nói rằng cần duy trì cam kết mạnh mẽ theo thời gian để thúc đẩy hoà nhập. Giáo dục tiểu học cho tất cả trẻ em Mali
30. Giáo dục tiểu học 29 Mục tiêu Một hệ thống giáo dục tiểu học thân thiện, hoà nhập với các trường học địa phương là tâm điểm của các hoạt động giáo dục, tồn tại trong cộng đồng. Vai trò của PHCNDVCĐ Vai trò của PHCNDVCĐ là phối hợp với các hệ thống giáo dục tiểu học để xây dựng các trường học địa phương hoà nhập, nhằm hỗ trợ các gia đình và trẻ khuyết tật tiếp cận giáo dục tiểu học trong cộng đồng địa phương mình, xây dựng và duy trì các mối liên kết giữa gia đình, cộng đồng và các trường học. Các kết quả mong đợi •Huy động cả cộng đồng tham gia xây dựng giáo dục tiểu học hoà nhập. •Các gia đình tích cực, hỗ trợ và tham gia trong giáo dục tiểu học hoà nhập. •Tất cả các trẻ khuyết tật hoàn thành giáo dục tiểu học có chất lượng. •Các thiết bị hỗ trợ, các phương pháp trị liệu phù hợp và các hỗ trợ cần thiết khác có thể tiếp cận được và có sẵn để hỗ trợ hoà nhập. •Các vấn đề tiếp cận trong môi trường trường học được xác định và giải quyết. •Các giáo viên cảm thấy được hỗ trợ và tin tưởng và khả năng giáo dục trẻ khuyết tật của mình. •Các giáo trình giảng dạy, các hệ thống kiểm tra và đánh giá, các phương pháp giảng dạy và các hoạt động ngoại khoá (ví dụ như thể thao, ca nhạc, các câu lạc bộ) tập trung vào trẻ và hoà nhập. •Các nguồn lực địa phương và chuyên gia dành cho giáo dục có đủ và được sử dụng phù hợp. •Các trẻ khuyết tật từ các gia đình nghèo được học tại các trường tiểu học. •Tạo được các mối quan hệ phối hợp với các bên liên quan, vận động ủng hộ ở tất cả các cấp nhằm đảm bảo các chính sách quốc gia thúc đẩy giáo dục tiểu học hoà nhập. Các khái niệm chính Phương pháp tiếp cận trên toàn cộng đồng Trách nhiệm của toàn cộng đồng là thúc đẩy và hỗ trợ hoà nhập, và các trường tiểu học địa phương là cơ hội và môi trường chính để thực hiện điều này. Các nhân viên PHCNDVCĐ có nhiều trách nhiệm và họ không phải là các chuyên gia về giáo dục, do đó học cần phải phối hợp với cộng đồng (trường học, gia đình, người khuyết tật, những người đứng đầu cộng đồng), tập trung vào việc nâng cao nhận thức về các quyền, sự hoà nhập và các mô hình xã hội, và huy động và hỗ trợ tất cả những ai tham gia. Các bậc cha mẹ biết rõ về đứa con của mình và có thể cung cấp các thông tin hữu ích cho các giáo viên. Các giáo viên có thể giúp cha mẹ hỗ trợ trẻ học tập tại nhà. Văn phòng giáo dục của huyện cần phải hỗ trợ hoà nhập để đảm bảo tính bền vững. Các ngành y tế và xã hội cần phải tham gia và trao đổi với nhau. Các giáo viên di động có thể đảm nhận các vai trò khác nhau, tạo mối liên kết và cung cấp các loại hình hỗ trợ khác nhau.
31. 30 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC Các giáo viên này có các kỹ năng cụ thế, ví dụ như dạy chữ nổi Braille hoặc ngôn ngữ ký hiệu, và đi đến các trường học để tư vấn, cung cấp nguồn lực và hỗ trợ cho các học sinh bị khuyết tật, giáo viên và bố mẹ của những trẻ này. HỘP 20 Yuri Soto Mescco sống với mẹ và chị em của mình trong dãy núi Andes, Peru. Yuri đã bị bại não và không thể đi lại được. Cậu bé muốn đi học tiểu học như chị em của mình, nhưng cậu phải đối mặt với một số rào cản. Không có con đường tiếp cận từ nhà đến đường chính, không có giao thông tiếp cận, và các giáo viên tại trường tiểu học địa phương đã không có bất kỳ nhận thức về khuyết tật hoặc được đào tạo liên quan đến khuyết tật. Nhân viên PHCNDVCĐ tập trung vào nâng cao quyền năng cho mẹ của Yuri và sau đó mẹ của cậu bé đã huy động cộng đồng để xây dựng một con đường từ nhà mình ra đường. Chương trình PHCNDVCĐ cung cấp một xe ba bánh và chuẩn bị các giáo viên. Yuri bắt đầu theo học ở trường tiểu học và buổi học bắt đầu với một bữa tiệc chào đón cậu do các học sinh khác tổ chức. Lối đi mới dẫn tới giáo dục của Yuri Peru Phương pháp tiếp cận toàn trường Một phương pháp tiếp cận toàn trường đảm bảo rằng các nhà quản lý, các giáo viên trưởng khối, các giáo viên ở các lớp học, người chăm sóc, cha mẹ, trẻ em khuyết tật hoặc không khuyết tật, hoặc bất kỳ những người nào có mối liên hệ với trường học sẽ cùng hợp tác với nhau để nâng cao nhận thức về khuyết tật, xác định và loại bỏ các rào cản nhằm hỗ trợ hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường học tại địa phương. HỘP 21 Nhân viên PHCNDVCĐ của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản ở vùng ngoại ô Damascus, Syria, làm việc cùng với lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo địa phương và các cơ quan quản lý hành chính, giáo viên và học sinh để xây dựng các trường tiểu học địa phương hoà nhập và dễ tiếp cận, đảm bảo để trẻ em khuyết tật có thể tham dự học tập. Họ đã thay đổi bảng đen, sắp xếp chỗ ngồi, lối vào phòng học, nhà vệ sinh và cơ sở vật chất trong sân chơi. Tình nguyện viên địa phương và giáo viên đã được đào tạo tại Damascus để dạy ngôn ngữ ký hiệu. Trẻ em, phụ huynh và thầy cô giáo, và chính quyền địa phương đều hiểu sự cần thiết và lợi ích của giáo dục trẻ em khuyết tật tại các trường học địa phương. Tạo ra thay đổi để thúc đẩy giáo dục hòa nhập Syria
32. Giáo dục tiểu học 31 Hoà nhập xã hội Học cách sống cùng với nhau, đối xử với những người khác biệt, và cởi mở, hỗ trợ và tôn trọng những người khác có vai trò quan trọng chẳng kém học tập các kỹ năng hàn lâm. Trẻ gặp khó khăn trong học tập các kỹ năng hàn lâm có thể vẫn được hưởng lợi từ việc hoà nhập xã hội trong môi trường học tập tại địa phương. Điều này cũng giúp chuẩn bị sự sẵn sàng cho tất cả trẻ em để sống trong một xã hội hoà nhập. Đáp ứng với sự đa dạng Trẻ em đều khác nhau và học theo những cách khác nhau. Trường học cần phải đáp ứng sự đa dạng này bằng cách đảm bảo chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, môi trường linh hoạt và hỗ trợ cho tất cả. Một hệ thống linh hoạt đòi hỏi phải được điều chỉnh để phù hợp với tất cả mọi người chứ không chỉ là dành cho một nhóm cụ thể. Tuyên truyền vận động hoà nhập có thể trở nên mạnh mẽ hơn nếu liên minh được với các nhóm thiệt thòi khác. Một ngôi trường tốt cho trẻ em khuyết tật sẽ là một ngôi trường tốt cho tất cả trẻ em, và sẽ hoà nhập được cho trẻ em từ các nhóm thiệt thòi và bị loại trừ khác. Đáp ứng sự đa dạng cũng có nghĩa là công nhận rằng bản thân trẻ em khuyết tật cũng rất khác nhau, ngay cả khi trẻ có cùng một khuyết tật.Ví dụ, người khiếm thị có thể truy cậpvàochươngtrìnhgiảngdạytheonhữngcáchkhácnhau:mộtngườicóthểthấycuộn băng ghi âm là hữu ích, người khác có thể thấy rằng chữ nổi Braille có ích hơn. Một số trẻ em khiếm thính có thể học tốt thông qua đọc bằng tín hiệu môi, trong khi những người khác có thể cần hỗ trợ ngôn ngữ ký hiệu. Môi trường thân thiện và tiếp cận Nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiếp cận giúp giảm chi phí hoà nhập tổng thể (21). Môi trường nhà trường cần phải tiếp cận được về mặt vật lý đối với tất cả trẻ em, và phải chú ý cụ thể đến việc đảm bảo để trẻ khuyết tật có thể tiếp cận nhà vệ sinh. Cần phải chú ý đảm bảo cách trang trí bên ngoài và không khí của trường cho thấy đây là môi trường thân thiện với tất cả (ví dụ như các trang thiết bị vệ sinh và nước sạch), những hình vẽ đầy màu sắc trên tường, và thái độ và cách cư xử tích cực của trẻ, giáo viên và các cán bộ khác sẽ góp phần tạo ra một môi trường thân thiện. Phương pháp tiếp cận lấy học viên làm trung tâm Chất lượng của những gì xảy ra trong trường học cũng quan trọng như khả năng tiếp cận. Một phương pháp tiếp cận lấy người học hoặc trẻ em làm trung tâm có nghĩa là tất cả các quy trình và cấu trúc ở trường được tập trung vào việc hỗ trợ mỗi đứa trẻ để trẻ có thể học tập và tham gia.Thường thì giáo viên, chương trình giảng dạy cứng nhắc hoặc có thời gian biểu cố định là tâm điểm của sự chú ý, bất kể đứa trẻ có thực sự học hay không. Lấy người học làm trung tâm cũng có nghĩa là“phù hợp lứa tuổi”. Đôi khi một đứa trẻ khuyết tật có thể không được xác định đủ sớm để bắt đầu tham gia giáo dục cơ bản cùng thời điểm như các bạn cùng trang lứa của mình. Một đứa trẻ bị thiểu năng trí tuệ có thể nhiều tuổi nhưng lại có tuổi tâm thần tương đối trẻ. Điều quan trọng là phải tôn trọng tuổi thực tế của trẻ.
33. 32 HƯỚNG DẪN PHCNDVCĐ > 3: HỢP PHẦN GIÁO DỤC Giáo dục tiểu học linh hoạt Giáo dục tiểu học thường diễn ra trong một toà nhà cố định nhưng không nhất thiết phải như vậy. Điều quan trọng là không nên có một ý tưởng cố định về vai trò của các trường học. Một số trẻ, ví dụ như trẻ bị khuyết tật nặng hoặc có nhiều khuyết tật, vẫn có thể được hoà nhập trong giáo dục tiểu học, thậm chí ngay cả khi trẻ được giáo dục tại nhà (xem phần giáo dục không chính quy). Giáo dục hoà nhập về mặt nghĩa đen không có nghĩa là đưa tất cả các trẻ khuyết tật vào trong một ngôi trường. Song không nên sử dụng điều này làm lý do để các trường học không phải thay đổi, và điều quan trọng đó là các trường học hoạt động hướng tới trở thành ngôi trường hoà nhập. Một trường học không có quyền loại trừ bất kỳ một trẻ nào ra khỏi hệ thống của mình chỉ vì bị khuyết tật (4). HỘP 22 Sarva Shiksha Abhiyan là một chương trình toàn diện và hợp nhất hàng đầu của Chính phủ Ấn Độ, được thiết lập để đạt được phổ cập giáo dục tiểu học (UEE) trong cả nước. Chương trình đã tổ chức một số buổi cắm trại ở cấp xã để tăng cường nhận thức của các bậc cha mẹ, giáo viên và cộng đồng về giáo dục hoà nhập. Những nỗ lực có hệ thống đã được thực hiện nhằm kết nối với các tổ chức phi Chính phủ và bệnh viện địa phương để phục hồi chức năng và xin các thiết bị hỗ trợ. Xây dựng các đoạn đường nối là một điểm không thể thiếu của tất cả các trường học nằm trong chương trình này. Các hoạt đက

keyword

Từ khóa

Đang cập nhật

prevBig

Quay lại

list list 0
Đã thích Thích