menu toggle
list list 0
Đã thích Thích

Điều trị tâm linh cho bệnh nhân ung thư

user

Ngày:

06/04/2018

user

Lượt xem:

5547

Bài viết thứ 35/91 thuộc chủ đề “Góc nhìn”

Biên soạn: Bác sĩ Phạm Lương Giang
Trình bày: Bác sĩ Phạm Nguyên Quý

(Mến tặng Bs. Phạm Nguyên Quý, chúc em luôn vững vàng trong nghiệp y khoa và giúp ích được nhiều người)

Điều trị tâm linh là một yêu cầu thực tế

Con người là một thể thống nhất thể xác và tinh thần.

Một căn bệnh có thể gây tổn thương về thể xác lẫn tinh thần.

Người bác sĩ hành nghề lâu năm sẽ thấy nhiều tâm trạng khác nhau xảy ra trên bệnh nhân: Vui, buồn, bình tĩnh, lạc quan, thất vọng, tuyệt vọng…

Từ lâu người ta đã lưu ý đến sự tổn thương tinh thần thể hiện bằng thay đổi tâm trạng, nặng nhất là tâm trạng tuyệt vọng và đau khổ. Mối tương quan tâm trạng (tức là tổn thương tinh thần) với bệnh tật cũng được nhắc đến.

Có trường phái cho rằng bệnh tật gây tổn thương thực thể làm thay đổi tâm trạng, rõ nhất là gây ra tổn thương trên não sẽ gây ra thay đổi tâm trạng. Tuy nhiên, nhiều khi tổn thương thực thể chưa chắc đã gây tổn thương tinh thần, mà ý nghĩa của căn bệnh mới thực sự gây ra điều đó. Ví dụ, có trường hợp ung thư bướu lớn chưa chẩn đoán ra người ta vẫn tỉnh queo, nhưng ung thư nhỏ xíu chẩn đoán ra người bệnh nghe tin đang bình thường có thể té xỉu. Những bệnh trị được, trị dễ thì ít tổn thương tinh thần hơn những bệnh nan y.
Có trường phái khác lại cho rằng mọi tổn thương thực thể của bệnh tật đều xuất phát từ nguyên nhân rối loạn tinh thần – thay đổi tâm trạng. Ở những bệnh nan y như ung thư, ảnh hưởng của tâm trạng người bệnh lên diễn tiến bệnh, kết quả điều trị bệnh là hết sức rõ ràng, hết sức quan trọng. Nhưng nói gì thì nói, trong khi chưa xác định được tổn thương tinh thần hay tổn thương thực thể trong một căn bệnh, cái nào là nhân, cái nào là quả, thì việc điều trị vẫn phải đối mặt với việc giải quyết đồng thời cả hai khía cạnh tổn thương đó. Tổn thương tinh thần trong bệnh nan y rất trầm trọng, điều trị cực kỳ khó khăn. Tổn thương tinh thần có thể không vì bệnh tật mà vì những xáo trộn đời sống gia đình xã hội. Nhiều trường hợp tổn thương sinh lý hay thể chất rất ít, nhưng tổn thương tâm lý nặng chẳng có thuốc nào chữa được, nhiều khi làm người ta tự kết thúc cuộc đời.

Điều trị tâm linh

Cách tiếp cận tổn thương tinh thần

Nguyên thủy nhất, người ta cải thiện tâm trạng người bị tổn thương tinh thần – tức có tâm trạng xấu – bằng những biện pháp mê tín dị đoan. Họ cầu khẩn sự che chở của Trời (Thượng đế), Phật, hồn thiêng tổ tiên sông núi; ém bùa diệt ma trừ tà để loại hết trong tâm những ám ảnh về tai họa, xui xẻo. Trên bệnh nhân Ung thư, sự cải thiện tâm trạng bằng con đường mê tín chỉ có tác dụng một thời gian ngắn, vì bệnh sẽ cứ tiến triển làm người ta thấy lễ lạt cầu khẩn, ém bùa chóng hết linh nghiệm. Người bệnh sẽ nhanh chóng rơi vào thất vọng rồi tuyệt vọng.
Thứ đến, khoa tâm lý học trong y khoa ra đời. Khoa tâm lý học nghiên cứu các yếu tố tác động lên tâm trạng bệnh nhân: Căn bệnh, môi trường (gia đình, xã hội, cảnh quan và điều kiện sống, bác sĩ, điều dưỡng) và tâm trạng ảnh hưởng đến bệnh như thế nào. Điều trị tâm lý học là cách thức điều chỉnh các yếu tố liên quan tạo nên tâm trạng bệnh nhân: chuẩn mực các giao tiếp của gia đình, xã hội, bác sĩ, điều dưỡng…đối với bệnh nhân, tối ưu ảnh hưởng tâm lý từ những tiện nghi phục vụ bệnh nhân (phòng ốc, giường nệm, chén dĩa, đồ ăn thức uống…), tư vấn giải tỏa những suy nghĩ sai lầm tiêu cực của bệnh nhân, phối hợp với điều trị bệnh lý, để đưa bệnh nhân về tâm trạng bình thường. Tốt hơn nữa là mang đến cho bệnh nhân tâm trạng tích cực.

Tuy nhiên, đối với những bệnh nan y như ung thư, điều trị tâm lý thường có rất ít tác dụng. Đó là do tâm trạng bi quan, chán nản, tuyệt vọng của bệnh nhân ung thư bắt nguồn từ sự đe dọa gây chết người của căn bệnh mà họ đang mang, và nhà tâm lý học không tài nào xóa bỏ được sự ám ảnh bị đe dọa đó. Cái tâm trạng đó chỉ hết khi người ta có NIỀM TIN chắc chắn chiến thắng căn bệnh, đó là nguyên do điều trị tâm linh ra đời.

Tâm linh là gì?

Tất cả những tác nhân tác động đến tâm trạng của con người mà tâm lý học chỉ ra, đều là yếu tố ngoại lai, có vai trò như điều kiện hay tác nhân kích thích tâm trạng náo loạn. Người ta nghĩ rằng trong phần tinh thần của con người có phần cốt lõi nhất, tinh túy nhất, cho nên đó là nơi linh thiêng nhất. Từ cái phần cốt lõi linh thiêng này mới đẻ ra suy nghĩ, lý trí, tình cảm, đạo đức, tư tưởng, tâm trạng, niềm tin, bản lĩnh con người. Phần tinh thần cốt lõi linh thiêng này trong các đạo thần học gọi là linh hồn, trong đạo vô thần (Phật học) và khoa học gọi là tâm linh. Linh hồn và tâm linh là hai khái niệm khác hẳn nhau nhưng cùng một ý nghĩa – là phần linh thiêng nhất của tinh thần, nơi sinh ra tất cả các hiện tượng và biểu hiện của tinh thần.

Tuy nhiên, chúng cũng có nhiều điểm khác nhau.

Trong đạo hữu thần (như Thiên chúa giáo, Hồi giáo) có niềm tin mãnh liệt với quan niệm cho rằng: Thượng Đế nặn thân xác con người rồi thổi hơi thở ngài vào đấy, hơi thở đó làm cái thân xác sống động và có nhận thức có sáng tạo, hơi thở đó chính là linh hồn. Linh hồn là hơi thở của thượng đế nên linh thiêng nhất, là trường tồn. Khi thân xác rã hoại, linh hồn thoát ra, đối diện với sự phán xử của Thiên Chúa. Những linh hồn của con chiên ngoan đạo, tin vâng và làm theo ý chúa thì được lên thiên đàng còn tội lỗi thì xuống địa ngục. Như vậy Linh hồn là tâm linh vì là một phần của Thượng đế. Trong đạo hữu thần, nói đến tận cùng của tâm linh là nói đến Thượng đế.
Trong đạo Phật, quan niệm cái tâm được trình bày trong kinh Địa Tạng bằng câu chuyện ẩn dụ, rất logic, rất ý nghĩa thâm sâu. Muốn hiểu được thì phải học hành có căn bản các khái niệm Phật học, người ngoại đạo nhảy ngang xương vào thì sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi. Đức Phật ví cái tâm như lớp đất dày (Địa) chứa đủ các yếu tố (Tạng) thuộc lãnh vực tinh thần ví như những hạt giống (chủng tử) về phẩm chất, bản năng, lý trí, trí nhớ, nghiệp lực…con người. Ông bà ta hay nói “Tâm địa” là vì vậy.

Tâm linh là hành trình nội tâm của con người, có nghĩa Tâm linh là một diễn biến trừu tượng chứ không phải một thực thể trừu tượng trong lĩnh vực tinh thần (phần thân trừu tượng của con người). Tất cả mọi sự do tâm tạo ra chứ không do một Thượng đế nào tạo ra cả – hoàn toàn không có Thượng đế, Phật học nói thế.

Để kiểm soát lý trí tình cảm…kiểm soát toàn bộ tinh thần của con người thì dùng kỹ thuật điều tâm – hành trình tâm linh của Phật giáo. Những người theo Phật giáo có niềm tin sâu sắc vào lời dạy của đức Phật, họ tin đó là chân lý, thực hành theo lời Phật dạy sẽ được nhiều ích lợi cho cuộc đời của mình. Đức Phật làm cho người ta tin mình qua việc nói người ta thực hành lời dạy của mình sẽ thấy hiệu quả tuyệt vời, người Phật tử chân chính tin Đức Phật qua sự kiểm chứng chứ không phải tin mù quáng.

Thế đấy! Phức tạp chéo ngoe thế đấy! Một bên tin Thượng đế, bên kia tin lời Phật. Hai khái niệm tâm linh khác hẳn nhau một đằng thì nói tâm linh là linh hồn, đằng kia lại nói tâm linh không phải là linh hồn. Điều trị tâm linh về bản chất mà khác nhau thì làm sao cùng đạt một mục đích đưa tâm trạng bị xáo trộn về trạng thái an lành?
Đầu tiên tôi theo đạo Phật, là một Phật tử mày mò kinh sách, tham luận với các đức Thầy cho nên giáo lý nhà Phật tôi thấy rất khoa học, sáng sủa, dễ hiểu. Cũng thấy Đạo Thiên Chúa vô lý. Nhưng rồi có nhiều bệnh nhân theo Đạo, kể cả những bà soeur hay đức Cha cũng có người là bệnh nhân của tôi. Qua những lần đàm đạo, tham dự lễ nhà thờ, tôi phát hiện ra rằng hai đạo có giáo lý, nghi lễ hành đạo khác nhau nhưng cùng một cái đích là hướng dẫn con người sống đúng đắn trong đời sống hiện tại, giải phóng con người khỏi khổ đau – điều trị tổn thương tinh thần.

Tâm linh là gì

Chữa trị tổn thương tinh thần qua con đường tâm linh

Sau một thời gian dài nghiền ngẫm Triết học, Tôn giáo và Trải nghiệm thực tế, tôi đã dần hiểu vì sao đạo Phật và đạo Thiên Chúa vẻ ngoài khác nhau và vì sao có hai khái niệm Tâm linh Thượng đế và Hành trình Nội tâm.

Sự thấu đạt này không chỉ rất lý thú mà còn giúp hiểu rõ những định nghĩa tâm linh ấy, từ đó mới chữa trị tổn thương tinh thần qua con đường tâm linh chứ không chỉ qua tâm lý học. Chúng ta thừa biết, trị tổn thương tinh thần cho những người vô thần thì không thể đi vào bằng con đường tâm linh có nội dung linh hồn Thượng đế được.
Sau đây là tóm tắt giải thích lý do nói trên (phải bỏ hết những câu chuyện lý thú, rất là đáng tiếc).

Con người khi mới lọt lòng mẹ, không có ý thức gì cả – chỉ có bản năng, 1 – 2 năm đầu đời tâm như tờ giấy trắng. Được khoảng 2 tuổi bé đứng trước gương và tình cờ thấy bóng mình trong đó, tò mò và thú vị. Bắt đầu từ đó bé mới có nhận thức về mình và ngoại cảnh. Càng lớn ý thức con người càng phát triển, nhận thức về cái riêng và cái chung sâu sắc dần lên. Con người từ tò mò đến có nhu cầu rồi khao khát được trả lời những câu hỏi:

  • Ta là ai (bản ngã)?
  • Ta và thế giới này từ đâu sinh ra (nguồn cội)?
  • Tại sao ta lại đến thế giới này?
  • Ý nghĩa và giá trị cuộc đời ta là cái gì?
  • Chết là gì và tại sao ta phải chết? và sau chết sẽ là gì?

Câu trả lời đơn giản nhất và sớm nhất trong lịch sử loài người là Thượng đế và những ý muốn của ngài. Nhiều triết gia cho rằng khái niệm Thượng đế là là sản phẩm trừu tượng của tư duy sáng tạo trong đầu con người. Sản phẩm này ở người Do thái cổ là hình ảnh một đấng quyền uy. Ai có tội thì bị ông ấy phạt, ai có công hay ngoan thì được ông ấy thưởng. Chúa Jesus và 12 thánh tông đồ là những nhà cách mạng tôn giáo. Họ đã nâng cấp phiên bản Thượng đế Quyền uy sang Thượng đế Tình thương (yêu). Điểm cơ bản nhất của đạo Chúa, là chúa Jesus đã dạy loài người một quy luật tối thượng của vũ trụ: Cho đi thứ gì thì nhận lại thứ ấy, cho đi tất cả thì sẽ được nhận lại tất cả, thậm chí nhiều hơn nữa. Loài người hãy tự cứu mình bằng việc tin nghe và làm theo điều Chúa dạy. Qua sự việc để cho thân mình bị đóng đinh trên giá cây, Chúa muốn mọi người hãy hết mình thương yêu người khác. Khi chúng ta thương yêu người khác đến mức bỏ cả thân xác tính mạng của mình thì tình yêu và hạnh phúc sẽ đến ngập trời – ví như tình yêu của đức Chúa trời ban thưởng. Hình ảnh Thượng đế đẹp và ý nghĩa sử dụng thực tế lớn lao như vậy đó! Có vẻ như con chiên ngoan đạo có niềm tin mãnh liệt vào Đức Chúa Trời; thật ra đó là sự khôn khéo của các nhà cách mạng tôn giáo. Qua hình tượng Thượng đế, họ làm mọi người tin chúa Jesus tuyệt đối nghe và làm theo lời Chúa dạy.

Nếu nghiên cứu sâu thêm những điều Chúa dạy khác, sẽ thấy những nội dung tương đồng với bên giáo huấn của Phật Thích ca. Đạo Chúa và đạo Phật hình thức khác nhau nhưng không có gì mâu thuẫn cả. Trong tất cả các đạo, đều có nhiều người theo đạo mà không hiểu đạo và không sống theo đạo, nhưng họ bảo vệ đạo rất cực đoan và tỏ ra rất nguy hiểm.

Bên phương trời Ấn độ cổ, Phật Thích Ca là nhà cách mạng tôn giáo đi trước Chúa Jesus gần 500 năm. Trong quá trình đi tìm những trả lời cho những câu hỏi kể trên, Đức Phật phát hiện ra sự khủng hoảng ý nghĩa của khái niệm thần quyền. Tiếp đến là phát hiện ra rằng tư duy và nhận thức của con người là nguồn gốc của mọi biểu hiện thế giới tinh thần: Cảm giác, cảm xúc, tình cảm, tư tưởng, đạo đức, lý tưởng, bản lĩnh, tác phong, hành động…
Tư duy và nhận thức là cái thứ thiêng liêng nhất, là một diễn biến trừu tượng chứ không phải là một thực thể. Do đó tâm linh trong đạo Phật là tư duy-nhận thức, là hành trình nội tâm. Vì đức Phật hiểu rằng để kiểm soát điều khiển tinh thần con người thì phải điều chỉnh qua phần tâm linh, thực hành tâm linh của đạo Phật là điều tâm. Ngài xây dựng một hệ thống lý thuyết hướng dẫn tu tập để điều tâm, trong đó có một nội dung quan trọng và chủ chốt gọi là Bát Chánh Đạo. Thực hành lý thuyết này người ta gọi là bước trên con đường Phật đạo. Chính vì vậy, người Phật tử tự hào gọi Phật học là khoa học tâm linh.

Để truyền đạt và phổ biến học thuyết của mình, đức Phật xác định nhu cầu chính yếu của nhân loại. Ngài phát hiện ra rằng những tổn thương tinh thần biểu hiện bằng cảm xúc – tâm trạng bất lực khổ đau là cái chung nhất, đời người ai cũng gặp, chưa ai chữa được trong thế giới loài người. Mà cái nỗi khổ đau đó thực chất là cái cảm nhận phát sinh từ tư duy –nhận thức nội tâm, các nguyên nhân ngoại cảnh (bệnh tật, xã hội) chỉ là tác nhân kích thích chứ không phải nguyên nhân chính. Do đó, đức Phật tuyên bố Phật giáo là con đường là phương tiện diệt khổ cho mỗi người và cho cả nhân loại. Phật thích ca chỉ chuyên trị đau khổ thôi – nghe khiêm tốn nhưng thực chất là một tuyên bố động trời.

Các tôn giáo lớn khác như Hindu, Islam, Judaism, Confucianism, Shinto… đều có những giáo lý thâm thúy và có ý nghĩa tích cực thiết thực cho con người theo tôn giáo đó. Những người thấm nhuần tôn giáo không bao giờ đứng ở tôn giáo mình chê bai bài xích tôn giáo khác.

Là người bác sĩ sát sao với bệnh nhân ung thư, đặc biệt là những bệnh nhân giai đoạn cuối, tôi cảm nhận được nỗi khổ đau – tổn thương tinh thần của người bệnh. Đồng thời hiểu sâu sắc vai trò, kỹ thuật của điều trị tổn thương tinh thần qua con đường tâm linh – gọi tắt là điều trị tâm linh. Hơn nữa, tôi còn có bí thuật y khoa để thực hành điều trị tâm linh trên những bệnh nhân trong giai đoạn cực ngắn. Bởi thực hành tâm linh bằng con đường đạo Phật và đạo Chúa là thực hành cho suốt đời người, chỉ người bệnh ung thư (nhất là ung thư giai đoạn cuối) theo đạo sẵn thì áp dụng điều trị tâm linh theo đạo mới kịp thời và hiệu quả.

Chữa trị tổn thương tinh thần qua con đường tâm linh

Điều trị tâm linh cho bệnh nhân ung thư

Rõ ràng rằng khái niệm tâm linh rất gần gũi và có thiên hướng tôn giáo. Tôi là một bác sĩ y khoa, làm việc theo tinh thần và phương pháp khoa học. Tôn giáo và khoa học là hai phương diện khác nhau nhưng không mâu thuẫn. Tôi sử dụng tôn giáo một cách khoa học và thực hành công việc khoa học trong khuôn khổ tình cảm, đạo đức tôn giáo.

Người bệnh ung thư có tinh thần bị tổn thương, biểu hiện bằng tâm trạng tuyệt vọng khổ đau ngút trời. Điều trị nỗi khổ đau này bằng con đường tâm linh có nghĩa là sao? Tại sao giúp bệnh nhân quen với quan niệm Thượng đế hoặc Hành trì nội tâm thì tinh thần họ sẽ hết khổ đau – hết bị tổn thương? Và kỹ thuật tiếp cận, điều chỉnh tâm linh người bệnh như thế nào? Đó là những câu hỏi không dễ trả lời về mặt lý luận.
Tôi sẽ giới thiệu cách giải quyết những câu hỏi đó theo con đường của một bác sĩ thực hành, và qua những câu chuyện đời.

Đầu tiên, chúng ta nhớ lại câu chuyện Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng. Ông dõng dạc trả lời tướng giặc Nguyên rằng “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì chỉ có một chết mà thôi!”.
Nói xong ngạo nghễ vươn cổ ngẩng cao đầu cho quân thù chém. Phập! một dòng máy phụt lên nhuốm đỏ cả mặt trời. Kể từ đó đến nay và mãi mãi về sau, mặt trời nước Việt Nam luôn cháy đỏ hơn mặt trời ở Trung Quốc. Tuyệt vời bản lĩnh của một con người! Đấy! Đấy! Bản lĩnh! Bản lĩnh là cái tôi muốn lưu ý cùng các bạn. Chết còn tỉnh queo huống hồ gì mấy trò đánh đập tra tấn. Nhiều bệnh nhân ung thư, kể cả bệnh nhân nặng đã có được bản lĩnh vững vàng nên họ dễ dàng vượt qua mọi đau đớn mệt mỏi thân xác do căn bệnh, chẳng buồn bã lo sợ gì vì cái chết cũng đã coi nhẹ như bông.

Tại sao Trần Bình trọng có bản lĩnh vậy? Bởi ông có lập trường tư tưởng vững vàng. Đó là suy nghĩ đơn giản nhưng chân thành và bất di bất dịch: ”Đã là người nước Việt, ăn cơm nước Việt, thì sẵn sàng hy sinh vì nước Việt”. Trong cuộc sống có những thứ mà người ta gọi là đạo lý. Có nghĩa là những lý lẽ về cách sống được công nhận là đúng đắn, bắt buộc phải theo không có gì để chối cãi. Sống ngược đạo lý, mất hết giá trị ý nghĩa con người thì chết tốt hơn nhiều. Người có lý trí, sống theo đạo lý thì họ hiểu được rằng chết không phải là mất hết – không còn gì, mà là chết có ý nghĩa của nó; giá trị của chết có khi lại cao hơn là sống.

Những con người chân chính, muốn sống thì họ cố gắng sống có ích. Nếu vì một lý do gì đó phải sống vô dụng một cách bất khả kháng thì người ta mong muốn được chết.
Lập trường tư tường con người được xây dựng lên từ thế giới quan và nhân sinh quan. Cái độ vững vàng của lập trường tư tưởng – tức là cái độ lì lợm của bản lĩnh phụ thuộc nhận thức và đức tin. Đến đây tôi nói gọn lại rằng, điều trị tâm linh là qua con đường tâm linh cố gắng bồi dưỡng, củng cố nhận thức và đức tin về thế giới quan và nhân sinh quan của người có tôn giáo. Ngược lại, đó là việc cố gắng hoàn thiện hoặc xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan tích cực cho người không tôn giáo, giúp họ bình tĩnh trong cuộc sống cũng như đối mặt với căn bệnh ung thư.

Viết đến đoạn này, tôi nhận được tin Ni sư Thích Nữ Như Thủy vừa viên tịch ba ngày trước, tại Thành phố Worcester của tôi. Ni sư mắc bệnh ung thư và đây là giai đoạn cuối. Cách nay mấy ngày, bà xã tôi thông dịch cuộc đối thoại cuối cùng giữa Ni sư và Điều dưỡng trong bệnh viện. Điều dưỡng hỏi: “Bây giờ (giai đoạn cuối tiên liệu sắp mất) bà có suy nghĩ gì?”. Bà trả lời: “Tôi muốn nói với các cô rằng hiện tại tôi đang rất phấn kích. Đối với người Phật tử chúng tôi cuộc đời này chỉ là một cõi tạm. Tôi đang chuẩn bị bước sang một cuộc hành trình mới”. Thế đấy! Bản lĩnh của một người có thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo vững vàng là như thế đấy! Ni sư có bướu lan rộng vùng chậu, nên nếu như là bệnh nhân bình thường thì sẽ đau la làng. Nhưng Ni sư tỉnh khô, không dùng thuốc chống đau gì cả (dù vẫn biết đang đau và đang bị xuất huyết). Điều trị tâm linh cho bệnh nhân ung thư, là giúp cho bệnh nhân dẫu có phải đối mặt với sự thật nghiệt ngã nhưng vẫn giữ tinh thần vững vàng, không mảy may bị tổn thương. Câu chuyện của ni sư Thích Nữ Như Thủy làm tôi nhớ đến ni sư Thích Nữ Hạnh Đạt bị ung thư vú, người cũng chuẩn bị cho sự ra đi của mình cứ như chuẩn bị cho một chuyến du xuân, cứ tíu ta tíu tít, nhớ lại mà vừa phục vừa thương.

Tôi nhắc đến bản lĩnh, đạo đức giúp con người đối diện với cái chết không có nghĩa là chỉ có như vậy. Chỉ đơn giản cái chết và uy danh của nó là nguyên nhân lớn lao nhất, điển hình nhất gây nên tổn thương tinh thần mà ai cũng sẽ phải trải qua. Bản lĩnh và đạo đức giúp con người trong tất cả hoạt động sống của mình, từ những hành động nhỏ nhặt nhất trở đi. Không phải chỉ có những nhà tu hành Phật giáo mới có bản lĩnh. Tôi đã từng gặp rất nhiều người bản lĩnh và đạo đức đáng nể phục nhưng theo tôn giáo khác và cả những người không có tôn giáo. Ai cũng có bản lĩnh, chỉ khác nhau về mức độ và hình thức, mà điều trị tâm linh là giúp nâng cao bản lĩnh cho con người yếu đuối.

Chợt nhớ ra điều cần nhắc mọi người rằng không phải kiến thức đồ sộ mới làm nên thế giới quan và nhân sinh quan đáng nể. Nhiều khi cả đống sách lớn lại bị thiêu rụi thành tàn tro bởi ngọn lửa từ một que diêm. Trái lại, một viên sỏi nhỏ nhưng lại đủ cứng cỏi để nước không tan, đốt không cháy, đập không vỡ. Người có suy nghĩ đơn giản nhưng đúng đắn nhiều khi lại có bản lĩnh rất vững vàng.
Cũng xin nhắc lần nữa, điều trị tâm linh đụng chạm đến niềm tin, thế giới quan, nhân sinh quan và bản lĩnh của người bệnh và nó khác hoàn toàn với mê tín dị đoan hoặc điều trị tâm lý. Đối với người không tôn giáo tôi hay dùng thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo một cách nhẹ nhàng mà đa số người nghe không biết đó là lý thuyết Phật giáo.

Nghiền ngẫm kỹ định nghĩa về điều trị tâm linh, chúng ta sẽ hiểu rằng có tượng Phật tượng Chúa, có nhà nguyện và nơi thờ cúng trong bệnh viện chưa chắc đã là điều trị tâm linh. Đó chỉ là phương tiện hay cái nơi để người ta sinh hoạt tôn giáo. Điều trị tâm linh là phải có người chủ sự việc giáo dục hay định hướng thế giới quan và nhân sinh quan cho bệnh nhân, củng cố niềm tin và bản lĩnh cho bệnh nhân. Nhà nguyện giống như một căn-tin, là nơi bệnh nhân và thân nhân kiếm đồ ăn uống để không đói khát hàng ngày chứ không phải là để điều trị dinh dưỡng hay bù nước điện giải cho bệnh nhân.
Điều trị tâm linh mất nhiều công sức và thời gian, trong khi bệnh nhân lại là quá đông, nên trên thực tế tôi chỉ giúp được một số bệnh nhân có hoàn cảnh đặc biệt và gần gũi với tôi. Có nhiều bệnh nhân chưa được điều trị tâm linh, hoặc nhiều bệnh nhân được khuyến khích đến các nhà lãnh đạo tôn giáo (như đức Thầy, đức Cha,…) của họ để được điều trị tâm linh. Hy vọng trong thời đại mới, các phương tiện truyền thông phong phú hơn thì việc điều trị tâm linh sẽ được cải thiện.

Điều trị tâm linh là lĩnh vực mới mẻ. Ở VN hầu như không có ai biết và ở nước ngoài thì các bác sĩ cũng biết rất sơ sài. Hy vọng bài viết này góp phần gợi mở cho điều trị tâm linh được phát triển một cách khoa học, có tổ chức, trở thành một chuyên khoa chính thức phối hợp tốt với các bác sĩ tâm lý, những nhà tu hành chân chính, những nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam.

keyword

Từ khóa

prevBig

Quay lại

list list 0
Đã thích Thích