Tràn khí màng phổi
Viêm tiểu phế quản
Hen
Nhiễm trùng hô hấp dưới
Viêm phổi hít
Tràn dịch màng phổi
Viêm phế quản cấp
Nguyên nhân tổn thương phổi do thuốc lá điện tử
Hội chứng ngừng thở khi ngủ
Đợt bùng phát bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Ngày:
09/06/2020
Lượt xem:
708
Bài viết thứ 25/25 thuộc chủ đề “Các bệnh Nội hô hấp”
Người dịch: Võ Phạm Minh Thư
Giãn phế quản là một vấn đề sức khoẻ phổi, thường gặp ở người lớn tuổi. Bệnh nhân biểu hiện ho khạc đàm nhầy mủ lượng nhiều hoặc ho ra máu tái diễn. Trong đa số trường hợp, bệnh là hậu quả của tình trạng nhiễm trùng phổi nặng trước đó, ở một số bệnh nhân không tìm được nguyên nhân. Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị hiệu quả để kiểm soát bệnh.
Khi bệnh nhân mắc bệnh giãn phế quản, đường dẫn khí trở nên giãn nở bất thường làm đường kính của các tiểu phế quản có thể tăng gấp 1.5 lần. Lòng phế quản gồ ghề, uốn vặn và chứa dịch, mủ. Thành phế quản bị phá huỷ và xơ hoá, xâm nhập nhiều tế bào viêm, giảm khả năng chống đỡ sự xâm nhập của vi khuẩn.
Đa số bệnh nhân đã từng trãi qua các đợt nhiễm trùng như lao phổi, viêm phổi nặng; tắc mạch phổi; ho gà. Một số người bệnh có bất thường hệ thống miễn dịch như nhiễm HIV, suy giảm miễn dịch bẩm sinh. Vài trường hợp ít gặp do giảm khả năng làm sạch chất đàm nhớt trong phổi trong bệnh xơ nang, hội chứng Kartagener. Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt enzyme alpha-1 antitrypsin, hội chứng móng vàng hay bệnh phế quản phổi dị ứng do nấm Aspergillus cũng là nguyên nhân của giãn phế quản. Tuy nhiên, có đến 1/3 số bệnh nhân mắc giãn phế quản không thể xác định được nguyên nhân.
Ở Việt Nam, chưa có thống kê chính thức trên toàn quốc về giãn phế quản, nhưng tần suất bệnh nhân dãn phế quản nhập viện tại khoa Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai là 6% (Ngô Quý Châu). Tại khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện Đại học Y Dược Cần Thơ, số bệnh nhân giãn phế quản nhập viện vì đợt cấp chiếm khoảng 10% trong số bệnh nhân điều trị nội trú vì bệnh hô hấp (Võ Phạm Minh Thư). Tình trạng khởi phát và mức độ của bệnh tăng dần theo tuổi. Một số bệnh nhân có các bệnh phổi mạn tính như hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính có tỉ lệ lớn đồng mắc với bệnh giãn phế quản. Phần lớn các số liệu cho thấy tính phổ biến và mức độ nguy hiểm của căn bệnh này trong cộng đồng.
Biểu hiện của bệnh nhân là do sự tăng tiết đàm nhớt quá mức ở trong phổi của người bệnh. Bệnh nhân thường ho khạc đàm lượng nhiều, đàm mủ, có thể có khó thở nhẹ khi gắng sức, vận động mạnh. Những bệnh nhân này thường xuyên nhiễm trùng hô hấp do nhiễm trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa). Đặc biệt ở trẻ em có thể biểu hiện như bệnh hen phế quản khó kiểm soát bệnh hoặc tái diễn các đợt nhiễm trùng tai và phổi.
Phát hiện bệnh giãn phế quản bằng cách nào?
Bệnh giãn phế quản thường được chẩn đoán bởi bác sĩ chuyên khoa hô hấp. Bệnh cảnh chung của người bệnh thường biểu hiện bằng ho khạc đàm lượng nhiều, kéo dài. Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính ngực cho thấy sự giãn nở bất thường có thể có hoặc không kèm dày thành phế quản.
Khi bệnh đã xuất hiện, các tổn thương phổi ít khả năng hồi phục hoàn toàn. Tuy nhiên, một số biện pháp có thể giảm tình trạng nặng của bệnh như sau:
Hầu hết bệnh nhân mắc giãn phế quản sẽ có tiên lượng tốt khi không có bệnh lý nền tại phổi. Những biểu hiện của bệnh có thể ảnh hưởng nhưng thường không trở nặng. Điều trị tốt, đặc biệt là kháng sinh khi nhiễm trùng, sẽ giúp người bệnh hầu như cảm thấy khỏe. Ở một số bệnh nhân, tình trạng trở nặng và bắt đầu cảm thấy khó thở. Một vài bệnh nhân tình trạng bệnh ngày càng xấu dần do càng nhiều phế quản bị ảnh hưởng. Rất ít bệnh nhân bị ho ra máu nặng đe doạ tính mạng. Tiên lượng của bệnh giãn phế quản chỉ là một phần trong số các bất thường khác do bệnh lý nền tại phổi. Nhìn chung, giãn phế quản sẽ tiến triển xấu khi người bệnh già đi, tuy nhiên, nếu được điều trị tốt sự tiến triển này sẽ dừng lại.