Vẹo cột sống bẩm sinh
Túi phình mạch não
Não úng thuỷ
Tật nứt đốt sống (Spina Bifida)
Máu tụ dưới màng cứng
U não - Những điều cần biết
Hội chứng tuỷ sống bám thấp
Chấn thương sọ não
U cột sống
U màng não
Ngày:
31/07/2018
Lượt xem:
1697
Bài viết thứ 07/11 thuộc chủ đề “Các bệnh về não và cột sống”
U não do di căn là những khối u ở não có nguồn gốc từ các mô hoặc cơ quan bên ngoài não. Khối u “gốc” được gọi là ung thư nguyên phát. Khối u đã lan (di căn) đến não được gọi là ung thư thứ phát. Di căn não là biến chứng thường gặp của ung thư toàn thân và nguyên nhân quan trọng gây nên thương tật và tử vong ở những bệnh nhân ung thư. U não do di căn là những khối u bên trong hộp sọ (u nội sọ) phổ biến nhất với tỉ lệ phát sinh có thể đang tăng. Khoảng 170.000 trường hợp di căn não mới được chẩn đoán ở Mỹ mỗi năm.
Mặc dù hầu như bất kỳ khối u ác tính nào cũng có thể di căn đến não, tỷ lệ phát sinh di căn não thay đổi đáng kể đối với mỗi loại ung thư khác nhau. Ung thư phổi, ung thư vú, ung thư tế bào hắc tố (Melanoma), ung thư thận và ung thư đại tràng là những ung thư hay di căn não nhất. Ung thư phổi nguyên phát là phổ biến nhất, chiếm 30-60% tất cả các di căn não. Khoảng 20-30% bệnh nhân ung thư vú sẽ bị di căn não.
Khả năng bị di căn não cũng thay đổi tùy theo độ tuổi. Nguy cơ cao nhất là ở độ tuổi 40-60 và có xu hướng giảm đi sau đó. Tỷ lệ di căn não ở trẻ em thấp hơn so với người lớn, với tần số dao động từ 6 đến 13%.
Mặc dù di căn não xảy ra với tần số tương tự ở nam và nữ, một số khác biệt về giới tính được ghi nhận tùy vào loại ung thư nguyên phát. Ung thư phổi là nguồn gây di căn não phổ biến nhất ở nam giới, trong khi ung thư vú là nguồn phổ biến nhất ở nữ giới.
Một hay nhiều khối u ở não sẽ có một trong những triệu chứng như bên dưới. Ngoài ra, bệnh nhân có thể có các triệu chứng hoặc dấu hiệu gây ra bởi ung thư nguyên phát.
Hình MRI não sau tiêm thuốc tương phản từ đường tĩnh mạch của một bệnh nhân bị ung thư phổi di căn não cho thấy nhiều tổn thương di căn trong nhu mô não với kích thước lớn nhỏ khác nhau và bắt thuốc dạng viền điển hình.
Di căn não có thể được chẩn đoán bằng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh sau đây:
Xem thêm bài Chụp cộng hưởng từ (MRI scan)
Ngoài hai phương pháp chẩn đoán ở trên, bác sĩ chuyên khoa ung thư thần kinh hoặc bác sĩ chuyên khoa ngoại thần kinh có thể yêu cầu làm các xét nghiệm hay khảo sát phức tạp hơn.
Phương thức điều trị thay đổi tùy theo kích thước và loại của khối u, tình trạng của khối u nguyên phát và sức khỏe chung của người bệnh. Mục tiêu điều trị cũng có thể khác nhau như làm giảm triệu chứng, cải thiện chức năng, hoặc làm người bệnh thoải mái hơn.
Thuốc không hóa trị: Những thuốc này được dùng để giảm đau, chẳng hạn như đau đầu (như các loại thuốc giảm đau), kiểm soát động kinh (như Phenytoin), và làm giảm phù (như Cortisone).
Thuốc hóa trị: Những loại thuốc này được thiết kế để tấn công và tiêu diệt các tế bào phân chia nhanh như tế bào ung thư. Hóa trị có thể điều trị toàn bộ não. Ngoài ra, ung thư ở nhiều nơi khác nhau có thể được điều trị cùng một lúc.
Phẫu thuật là phương pháp quan trọng trong việc điều trị một số loại di căn não. Trong ca phẫu thuật, bác sĩ Ngoại thần kinh sẽ lấy đi một mẫu mô nhỏ ở não để xác định chẩn đoán. Sau đó khối u (còn được gọi là tổn thương) sẽ được cắt bỏ. Phẫu thuật được thực hiện khi bác sĩ điều trị tiên lượng rằng phương pháp này có khả năng làm giảm triệu chứng tốt hơn các cách điều trị khác và nó có thể kéo dài sự sống của bệnh nhân.
Xạ trị là phương pháp điều trị sử dụng chùm tia có năng lượng cao chiếu tập trung vào khối u để tiêu diệt tế bào ung thư. Xạ phẫu lập thể (Radiosurgery Stereotactic – SRS), một tiến bộ lớn trong xạ trị, sử dụng kỹ thuật ba chiều để chiếu một liều xạ lớn vào khối u (mục tiêu) bằng dao gamma hoặc máy gia tốc tuyến tính. Ưu điểm chính của nó là có khả năng điều trị các khối u (tổn thương) không thể cắt bỏ bằng phẫu thuật. Ngoài ra, nó không có tính xâm lấn (tức không phải gây mê, mở hộp sọ,…), có ít rủi ro hơn và yêu cầu thời gian nằm viện ngắn hơn.
Nhiều thử nghiệm mới đang được tiến hành để sử dụng liệu pháp gene trong điều trị di căn. Tuy nhiên, liệu pháp gene điều trị di căn não vẫn còn trong giai đoạn trứng nước.
Nhìn chung, tiên lượng di căn não là khá xấu. Nhiều người bị di căn não có khối u lan rộng. Bệnh nhân bị di căn não thường tử vong trong vòng hai năm. Các yếu tố tiên lượng rất phức tạp và phần lớn phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe chung, mức độ ảnh hưởng trên chức năng thần kinh, thời gian giữa chẩn đoán ung thư nguyên phát và chẩn đoán có di căn não, loại ung thư nguyên phát cũng như tính chất, kích thước và mức độ xâm lấn của khối u di căn.
Tài liệu tham khảo
http://www.aans.org/Patient%20Information/Conditions%20and%20Treatments/Brain%20Metastasis.aspx