Điều trị bong gân cổ
9 điều nên biết về tế bào gốc
Hẹp ống sống thắt lưng
Đau cổ
Gãy xẹp - Lún đốt sống
Giải phẫu cột sống và hệ thần kinh ngoại biên
Đĩa đệm cổ nhân tạo
Ngày:
31/07/2018
Lượt xem:
2128
Bài viết thứ 04/08 thuộc chủ đề “Các bệnh về lưng và cổ”
Các xương đốt sống hình thành nên cột sống được đệm bằng những cấu trúc dạng đĩa nhỏ gọi là đĩa đệm. Các đĩa đệm này có hình tròn và phẳng, với một lớp bên ngoài dai bền gọi là vòng sợi (annulus) bao quanh một chất dạng gel gọi là nhân đệm (nucleus). Nằm giữa mỗi đốt sống, đĩa đệm có tác dụng làm giảm xóc và làm cho cột sống cử động uyển chuyển. Các dây chằng dày gắn liền các đốt sống với nhau và giữ đĩa đệm không di lệch.
Thoát vị đĩa đệm là tình trạng một mảnh của nhân đĩa đệm được thoát ra khỏi vòng sợi, vào trong ống sống thông qua vị trí đứt rách vòng sợi. Đĩa đệm trở nên bị thoát vị thường là trong giai đoạn đầu của sự thoái hóa. Ống sống có không gian hạn chế, không đủ cho các dây thần kinh và mảnh thoát vị đĩa đệm. Do sự di chuyển này, các đĩa đệm ép vào dây thần kinh, thường gây đau và có thể là nghiêm trọng.
Thoát vị đĩa đệm có thể xảy ra ở bất kỳ đoạn nào của cột sống. Thoát vị đĩa đệm phổ biến hơn ở cột sống thắt lưng, nhưng cũng xảy ra ở cột sống cổ. Vùng mà bạn bị đau phụ thuộc vào đoạn cột sống bị ảnh hưởng.
Căng giãn quá quá mức hoặc chấn thương cột sống có thể gây ra thoát vị đĩa đệm. Tuy nhiên, đĩa đệm thoái hóa tự nhiên theo tuổi, và các dây chằng giữ nó cũng bắt đầu suy yếu. Khi thoái hóa tiến triển, giãn nhẹ hoặc chuyển động tương đối nhẹ cũng có thể gây ra thoát vị đĩa đệm.
Một số cá nhân có thể có các đĩa đệm dễ bị tổn thương, kết quả là, có thể bị thoát vị đĩa đệm nhiều nơi dọc theo cột sống. Nghiên cứu cho thấy có khuynh hướng cho thoát vị đĩa đệm có thể tồn tại trong nhiều gia đình, với một số thành viên bị thoát vị đĩa đệm.
Các triệu chứng khác nhau rất nhiều tùy thuộc vào vị trí của đĩa đệm thoát vị và kích thước của thoát vị. Nếu thoát vị đĩa đệm không đè lên dây thần kinh, bạn có thể đau lưng thấp hoặc không đau gì cả. Nếu nó chèn ép lên một dây thần kinh, có thể gây đau, tê hoặc yếu tại khu vực mà các dây thần kinh chi phối.
Đau thần kinh tọa thường do thoát vị đĩa đệm ở thắt lưng. Sự chèn ép lên một hoặc một số rễ thần kinh tạo thành dây thần kinh toạ có thể gây đau, tê và dị cảm lan từ mông xuống chân và đôi khi xuống bàn chân. Thường chỉ một bên (trái hoặc phải) bị ảnh hưởng. Cơn đau này thường được mô tả giống như dao đâm và điện giật. Nó có thể nặng hơn khi đứng, đi bộ hoặc ngồi. Cùng với đau chân, bạn có thể kèm theo bị đau lưng.
Các triệu chứng có thể bao gồm đau âm ỉ hay giống như dao đâm ở cổ hoặc giữa xương bả vai, đau lan xuống cánh tay đến bàn tay hoặc ngón tay, hoặc bị tê hoặc ngứa ran ở vai hoặc cánh tay. Cơn đau có thể tăng lên theo tư thế hoặc chuyển động của cổ nhất định.
Chẩn đoán được thực hiện bởi một nhà phẫu thuật thần kinh dựa trên bệnh sử, triệu chứng, khám lâm sàng và kết quả xét nghiệm, bao gồm:
Xem thêm bài Chụp cộng hưởng từ (MRI scan) và bài Chụp X quang
Hình chụp MRI cột sống thắt lưng của một bệnh nhân bị thoát vị đĩa đệm có mảnh rời tại tầng L5/S1 bên phải.
May mắn thay, phần lớn các thoát vị đĩa đệm không cần phải phẫu thuật. Tuy nhiên, một tỷ lệ nhỏ những người có thoát vị đĩa đệm, thoái hóa đĩa đệm, có thể có triệu chứng hoặc đau lưng nặng, ảnh hưởng đáng kể cuộc sống hàng ngày.
Điều trị ban đầu đối với thoát vị đĩa đệm thường là bảo tồn và không phẫu thuật. Bác sĩ có thể kê toa nghỉ ngơi tại giường hoặc khuyên bạn nên duy trì một mức độ hoạt động không gây đau trong vài ngày đến vài tuần. Điều này làm giảm quá trình viêm dây thần kinh.
Thoát vị đĩa đệm thường được điều trị bằng thuốc kháng viêm Nonsteroid nếu mức độ đau nhẹ đến trung bình. Tiêm Steroid ngoài màng cứng có thể được thực hiện bằng cách sử dụng kim tiêm vào cột sống dưới hướng dẫn X-quang để thuốc đến vị trí chính xác của thoát vị đĩa đệm.
Bác sĩ có thể đề nghị tập vật lý trị liệu. Các chuyên gia vật lý trị liệu sẽ kết hợp với chẩn đoán của bác sĩ, sẽ đánh giá và chỉ ra một quy trình điều trị được thiết kế đặc biệt cho những bệnh nhân có thoát vị đĩa đệm. Vật lý trị liệu có thể bao gồm kéo xương chậu, mát xa nhẹ nhàng, chườm nước đá và điều trị nhiệt, siêu âm, kích thích điện cơ, và các bài tập thể dục kéo dãn (stretching exercise). Thuốc giảm đau và giãn cơ cũng có thể mang lại lợi ích kết hợp với vật lý trị liệu.
Bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật nếu điều trị bảo tồn, chẳng hạn như vật lý trị liệu và thuốc, không làm giảm hoặc không hết đau hoàn toàn. Bác sĩ sẽ nói chuyện với bạn về các loại phẫu thuật cột sống hiện có, tùy thuộc vào trường hợp cụ thể của bạn, bác sĩ sẽ xác định những loại phẫu thuật điều trị thích hợp cho bạn. Với bất kỳ loại phẫu thuật nào, tuổi của bệnh nhân, sức khỏe tổng thể và các vấn đề khác đều được xem xét khi có chỉ định phẫu thuật.
Những lợi ích của phẫu thuật luôn luôn cần được cân nhắc cẩn thận trước những rủi ro của nó. Mặc dù một tỷ lệ lớn bệnh nhân bị thoát vị đĩa đệm có giảm đau đáng kể sau phẫu thuật, không có đảm bảo rằng phẫu thuật đều sẽ giúp ích mỗi bệnh nhân.
Bạn có thể được coi là một ứng cử viên cho phẫu thuật cột sống nếu:
Các loại phẫu thuật
Hình X quang cột sống cổ sau phẫu thuật lấy nhân đệm tầng C5/C6 có ghép xương và có sử dụng các dụng cụ kim loại ( plate and screws) làm cứng khớp đốt sống (các mũi tên đỏ) .
Sau phẫu thuật
Bác sĩ sẽ cung cấp cho bạn hướng dẫn cụ thể sau mổ và thường kê toa thuốc giảm đau. Bác sĩ sẽ giúp xác định khi nào bạn có thể tiếp tục hoạt động bình thường như trở lại làm việc, lái xe và tập thể dục. Một số bệnh nhân có thể phục hồi tốt chức năng và vật lý trị liệu sau phẫu thuật. Dự kiến có khó chịu khi bạn dần dần trở lại hoạt động bình thường, nhưng đau là một tín hiệu cảnh báo rằng bạn có thể cần phải chậm lại.
Khi bạn đã hồi phục sau phẫu thuật và đã tái khám với bác sĩ của bạn, bạn có thể tiếp tục tập thể dục vừa phải. Những lời khuyên sau đây có thể hữu ích trong việc ngăn ngừa đau lưng và thoát vị đĩa đệm.
Tài liệu tham khảo