Không có bài viết cùng chủ đề
Ngày:
08/03/2016
Lượt xem:
1746
Bài viết thứ 01/01 thuộc chủ đề “Các guidelines quan trọng trong Y khoa”
Biên dịch :
Liên hệ : BS. Nguyễn Thụy Cẩm Hà, email: ykhoa.ebm@gmail.com
Phóng to hình: Tổng quan về phác đồ Rung nhĩ
Phóng to hình: Phòng đột quị ở bệnh nhân rung nhĩ không có bệnh van tim
Phóng to hình: Chiến lược kiểm soát tần số tim
Phóng to hình: Chiến lược kiểm soát nhịp tim
Phóng to hình: Chiến lược cắt đốt rung nhĩ
Từ toàn bộ các khuyến cáo, nhóm phát triển bản hướng dẫn đã chọn 10 điều ưu tiên để áp dụng trong thực hành. Tiêu chuẩn được sử dụng để chọn những khuyến cáo được liệt kê chi tiết trong bản hướng dẫn 326 . Những lý do để chọn lựa mỗi khuyến cáo được đưa ra trong bảng liên quan đến bằng chứng của khuyến cáo trong các phần tương ứng.
Gói chăm sóc và thông tin được cá nhân hóa:
Cung cấp cho những bệnh nhân rung nhĩ một gói chăm sóc cá nhân hóa phù hợp với từng bệnh nhân. Hãy đảm bảo rằng gói chăm sóc này được ghi chú lại và đưa đến người bệnh, và bao gồm:
Chuyển bệnh nhân đến các chuyên gia
Chuyển bệnh nhân một cách nhanh chóng a ở bất kì giai đoạn nào nếu điều trị thất bại trong việc kiểm soát triệu chứng của rung nhĩ và xử trí chuyên môn sâu hơn là cần thiết. [điểm mới năm 2014]
Nguy cơ đột quị:
Sử dụng thang điểm đánh giá nguy cơ đột quị CHA2DS2-VASc để đánh giá nguy cơ đột quị ở bệnh nhân với bất kì yếu tố dưới đây:
::::::
a Nhóm phát triển khuyến cáo định nghĩa “nhanh chóng” nghĩa là không lâu hơn 4 tuần sau khi điều trị cuối cùng thất bại hoặc không lâu hơn 4 tuần sau khi rung nhĩ tái phát sau chuyển nhịp khi mà các xử trí chuyên sâu hơn là cần thiết.
Nguy cơ chảy máu
Sử dụng thang điểm HAS-BLED để đánh giá nguy cơ chảy máu ở những người đang bắt đầu hoặc đã bắt đầu dùng thuốc chống đông. Xem xét việc điều chỉnh và giám sát các yếu tố nguy cơ sau:
Can thiệp để phòng đột quị
Thuốc chống đông
Sử dụng thuốc chống đông cho bệnh nhân với chỉ số CHA2DS2-VASc ≥ 2, và phải cân nhắc nguy cơ chảy máu trong việc sử dụng chống đông. [điểm mới năm 2014]
Can thiệp để phòng đột quị
Đánh giá việc kiểm soát thuốc chống đông với thuốc kháng vitamin K
Tính khoảng thời gian tổng cộng bệnh nhân có mức kiểm soát trong phạm vi điều trị tại mỗi lần khám. Khi tính chỉ số này:
Nếu không cải thiện được các vấn đề trong việc kiểm soát chống đông, hãy đánh giá nguy cơ và lợi ích của các phương pháp phòng đột quị khác và thảo luận những điều này với bệnh nhân. [điểm mới năm 2014]
Chống ngưng tập tiều cầu
Không nên dùng aspirin đơn trị liệu chỉ để phòng đột quị cho bệnh nhân rung nhĩ. [điểm mới năm 2014]
Kiểm soát tần số và nhịp tim
Khi nào nên sử dụng phương pháp kiểm soát tần số hoặc nhịp tim
Đưa ra kiểm soát tần số tim như một chiến lược ưu tiên hàng đầu cho bệnh nhân rung nhĩ, trừ một số bệnh nhân:
Đốt điện nhĩ trái và chiến lược đặt máy tạo nhịp và cắt đốt rung nhĩ
Đốt điện nhĩ trái:
Nếu việc điều trị thuốc thất bại trong việc kiểm soát triệu chứng của rung nhĩ hoặc không phù hợp:
1. Thực hiện việc bắt mạch để khảo sát sự hiện diện của mạch không đều mà đây có thể là biểu hiện của bệnh nền rung nhĩ trên những người bệnh có các triệu chứng sau:
2. Khi bắt mạch phát hiện ra mạch không đều, đo điện tâm đồ trên tất cả mọi người nghi ngờ có rung nhĩ dù có triệu chứng hay không[2006]
3. Trên những bệnh nhân nghi ngờ rung nhĩ kịch phát c nhưng chưa được phát hiện bởi điện tâm đồ chuẩn:
::::::
b Xem thêm thông tin về cắt đốt nhĩ trái ở Percutaneous balloon cryoablation for pulmonary vein isolation in atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 427), Percutaneous endoscopic catheter laser balloon pulmonary vein isolation for atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 399) và Percutaneous (non-thoracoscopic) epicardial catheter radiofrequency ablation for atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 294). Xem thêm thông tin về cắt đốt nhĩ trái bằng phẫu thuật không mở ngực ở Thoracoscopic epicardial radiofrequency ablation for atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 286).
c Rung nghĩ kịch phát tự kết thúc trong vòng 7 ngày, thông thường trong vòng 48 giờ.
4. Thực hiện siêu âm tim qua thành ngực ở những bệnh nhân rung nhĩ:
5. Không thực hiện thường quy siêu âm tim qua lồng ngực chỉ với mục đích là thêm phân tầng nguy cơ đột quị ở những bệnh nhân có rung nhĩ, mà sự cần thiết để bắt đầu sử dụng thuốc chống đông đã được chấp thuận dựa trên tiêu chuẩn lâm sàng ( xem chương 8) [2006, điều chỉnh năm 2014]
6. Thực hiện siêu âm tim qua thực quản ở những bệnh nhân có rung nhĩ mà:
7. Cung cấp cho những bệnh nhân rung nhĩ một gói chăm sóc cá nhân hóa. Đảm bảo rằng gói chăm sóc này được ghi chép và thực hiện, và bao gồm:
8. NICE đưa ra chỉ dẫn về các thành phần quan trọng trong cách chăm sóc bệnh nhân. Tham khảo phần khuyến cáo dựa trên trải nghiệm của bệnh nhân ở dịch vụ NHS (NICE khuyến cáo lâm sàng 138) [điểm mới năm 2014 ]
9. Chuyển bệnh nhân một cách nhanh chóng ở bất kì giai đoạn nào nếu điều trị thất bại trong việc kiểm soát triệu chứng của rung nhĩ và xử trí chuyên môn sâu hơn là cần thiết. [điểm mới năm 2014]
10. Sử dụng điểm CHA 2 DS 2 -VAS c để đánh giá nguy cơ đột quị trên bệnh nhân có bất kì điều gì dưới đây:
11. Không đề nghị liệu pháp phòng đột quị với bệnh nhân dưới 65 tuổi có rung nhĩ và không có yếu tố nguy cơ nào ngoài giới tính của họ (điều này có nghĩa là, nguy cơ đột quị rất thấp với điểm CHA 2 DS 2 -VAS c = 0 điểm đối với nam và 1 điểm đối với nữ).[điểm mới năm 2014]
12. Xem xét việc sử dụng thuốc chống đông cho nam giới với điểm CHA 2 DS 2 -VAS c bằng 1 điểm. Lưu ý đến nguy cơ chảy máu [điểm mới năm 2014 ]
13. Đề nghị thuốc chống đông cho những bệnh nhân có điểm CHA 2 DS 2 -VAS c bằng 2 điểm trở lên. Lưu ý đến nguy cơ chảy máu [điểm mới năm 2014]
14. Thảo luận về những lựa chọn chống đông với bệnh nhân và chọn lựa dựa trên đặc điểm lâm sàng và ý muốn của họ. [điểm mới năm 2014]
15. Không sử dụng đơn liệu pháp Aspirin để phòng đột quị cho bệnh nhân bị rung nhĩ [điểm mới năm 2014]
16. Apixaban được khuyến cáo như một chọn lựa để phòng đột quị và tắc mạch hệ thống ở bệnh nhân có rung nhĩ không có bệnh van tim kèm với một hay nhiều yếu tố nguy cơ sau đây:
[Khuyến cáo này của Apixaban cho việc phòng đột quị và tắc mạch hệ thống với bệnh nhân bị rung nhĩ không có bệnh van tim (theo NICE TA 275) .] [2013]
17. Quyết định về việc liệu có bắt đầu điều trị với apixaban có nên được đưa ra sau khi thảo luận chi tiết giữa bác sĩ và bệnh nhân về nguy cơ và lợi ích của apixaban so với Warfarin, dabigatran etexilate và rivaroxaban. Với bệnh nhân đang sử dụng warfarin, những nguy cơ và lợi ích có thể xảy ra của việc thay đổi sang sử dụng apixaban nên được lưu ý trong bối cảnh kiểm soát mức INR của họ.
[Khuyến cáo này của Apixaban cho việc phòng đột quị và tắc mạch hệ thông với bệnh nhân bị rung nhĩ không có bệnh van tim (NICE TA 275) .] [2013]
18. Dabigatran etexilate được khuyến cáo như một chọn lựa để phòng đột quị và tắc mạch hệ thống trong chỉ định được cấp phép của nó, điều này có nghĩa là, ở bệnh nhân rung nhĩ không có bệnh van tim với một hay nhiều hơn các yếu tố nguy cơ sau đây:
[ Khuyến cáo này của Dabigatran etexilate cho việc phòng đột quị và tắc mạch hệ thông với bệnh nhân bị rung nhĩ (theo NICE TA 249) .] [2012]
19. Quyết định về việc liệu bắt đầu điều trị với dabigatran etexilate nên được đưa ra sau khi thảo luận chi tiết giữa bác sĩ và bệnh nhân về nguy cơ và lợi ích của dabigatran etexilate so với Warfarin. Với bệnh nhân đang sử dụng warfarin, những nguy cơ và lợi ích có thể xảy ra của việc thay đổi sang sử dụng apixaban nên được lưu ý trong bối cảnh kiểm soát mức INR của họ. [ Khuyến cáo này của Dabigatran etexilate cho việc phòng đột quị và tắc mạch hệ thông với bệnh nhân bị rung nhĩ (theo NICE TA 249)] [2012]
20. Rivaroxaban được khuyến cáo như một lựa chọn cho việc phòng đột quị và tắc mạch hệ thống trong chỉ định được cấp phép, ở những bệnh nhân có rung nhĩ không có bệnh vantim với một hoặc nhiều hơn yếu tố nguy cơ sau đây:
[ Khuyến cáo này của Rivaroxaban cho việc phòng đột quị và tắc mạch hệ thống với bệnh nhân bị rung nhĩ (theo NICE TA 256)] [2012]
21. Quyết định về việc liệu bắt đầu điều trị với Rivaroxaban nên được đưa ra sau khi thảo luận chi tiết giữa bác sĩ và bệnh nhân về nguy cơ và lợi ích của Rivaroxaban so với Warfarin. Với bệnh nhân đang sử dụng warfarin, những nguy cơ và lợi ích có thể xảy ra của việc thay đổi sang sử dụng apixaban nên được lưu ý trong bối cảnh kiểm soát mức INR của họ.
[ Khuyến cáo này của Rivaroxaban cho việc phòng đột quị và tắc mạch hệ thông với bệnh nhân bị rung nhĩ (theo NICE TA 256)] [2012]
22. Sử dụng thang điểm HAS-BLED để đánh giá nguy cơ chảy máu ở bệnh nhân đang sử dụng hoặc bắt đầu sử dụng thuốc chống đông. Xem xét việc điều chỉnh và giám sát các yếu tố nguy cơ sau:
23. Khi cung cấp thông tin về những lợi ích và nguy cơ của thuốc chống đông, cần giải thích rõ cho bệnh nhân rằng:
24. Không nên ngưng thuốc chống đông chỉ vì bệnh nhân có nguy cơ té ngã [điểm mới năm 2014]
25. Tính khoảngthời gian tổng cộng bệnh nhân có mức kiểm soát trong phạm vi điều trị tại (time in therapeutic range (TTR)) mỗi lần khám bệnh. Khi tính TTR:
26. Đánh giá lại việc dùng thuốc chống đông đối với bệnh nhân có hiệu quả kiểm soát chống đông kém qua bất kì dấu hiệu sau:
27. Khi đánh giá lại việc dùng thuốc chống đông, cần lưu ý và nếu có thể nên đánh giá các yếu tố có thể góp phần vào việc kiểm soát thuốc chống đông kém như sau:
28. Nếu không cải thiện được tình trạng kiểm soát thuốc chống đông kém, nên đánh giá các nguy cơ và lợi ích của các biện pháp phòng ngừa đột quị thay thế và thảo luận với bệnh nhân [điểm mới năm 2014)]
29. Đối với bệnh nhân đang không dùng thuốc chống đông, cần đánh giá lại nguy cơ đột quị khi bệnh nhân 65 tuổi hoặc nếu bệnh nhân mắc một trong số các bệnh sau ở bất kì tuổi nào:
[điểm mới năm 2014]
30. Đối với bệnh nhân đang không dùng thuốc chống đông vì nguy cơ chảy máu hoặc các yếu tố khác, đánh giá lại nguy cơ đột quị và chảy máu hằng năm và phải bảo đảm tất cả những đánh giá lại và quyết định đó được ghi chép lại [điểm mới năm 2014]
31. Với bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông, đánh giá lại nhu cầu dùng thuốc chống đông và hiệu quả chống đông ít nhất một lần mỗi năm, hoặc thường xuyên hơn nếu có nhiều biến cố lâm sàng liên quan xảy ra ảnh hưởng đến việc dùng thuốc chống đông hoặc nguy cơ chảy máu [điểm mới năm 2014]
32. Xem xét việc làm tắc tiểu nhĩ trái (Left Atrial Appendage Occlusion (LAAO)) nếu có chống chỉ định thuốc chống đông hoặc không dung nạp được thuốc và nên thảo luận với bệnh nhân về lợi ích và các nguy cơ của việc làm tắc tiểu nhĩ trái. Để có thêm thông tin , xem phần can thiệp qua da bít tắc tiểu nhĩ trái trong rung nhĩ không do bệnh van tim để phòng ngừa thuyên tắc mạch (Percutaneous occlusion of the left atrial appendage in non-valvular atrial fibrillation for the prevention of thromboembolism) (hướng dẫn thủ thuật can thiệp NICE 349) [điểm mới năm 2014]
33. Không đề nghị LAAO như là biện pháp thay thế thuốc chống đông trừ khi có chống chỉ định thuốc chống đông hoặc không dung nạp thuốc [điểm mới năm 2014]
34. Kiểm soát tần số là chiến lược hàng đầu đối với bệnh nhân rung nhĩ, trừ các bệnh nhân:
35. Dùng một thuốc ức chế beta chuẩn (nghĩa là thuốc ức chế kvhác với sotalol) hoặc một thuốc ức chế kênh calci có hiệu quả trong việchạn chế tần số tim là đơn trị liệu khởi đầu đối với bệnh nhân rung nhĩ cần điều trị bằng thuốc trong chiến lược kiểm soát tần số tim. Việc lựa chọn thuốc phải dựa vào triệu chứng, tần số tim, bệnh kèm theo và mong muốn của bệnh nhân [điểm mới năm 2014]
36. Cân nhắc digoxin đơn trị liệu đối với bệnh nhân rung nhĩ không kịch phát chỉ khi bệnh nhân thuộc nhóm ít vận động (không tập hoặc rất ít luyện tập thể dục )
37. Nếu đơn trị liệu không kiểm soát được triệu chứng, và nếu các triệu chứng tiếp diễn được nghĩ là do kiểm soát tần số thất kém thì nên cân nhắc sử dụng liệu pháp kết hợp với bất kì 2 trong các thuốc:
38. Không nên dùng amiodarone lâu dài để kiểm soát tần số tim (điểm mới năm 2014)
39. Cân nhắc việc kiểm soát nhịp bằng thuốc và/hoặc bằng sốc điện với bệnh nhân rung nhĩ có triệu chứng tiếp diễn sau khi đã kiểm soát tần số tim hoặc với bệnh nhân không thành công với biện pháp kiểm soát tần số tim [điểm mới năm 2014]
40. Đối với những bệnh nhân thực hiện chuyển nhịp, nếu rung nhĩ kéo dài hơn 48h nên được chuyển nhịp bằng sốc điện hơn là bằng thuốc [điểm mới năm 2014]
41. Cân nhắc dùng amiodarone 4 tuần trước khi và duy trì đến 12 tháng sau khi sốc điện để duy trì nhịp xoang, và nên thảo luận với bệnh nhân về lợi ích và nguy cơ của amiodarone [ điểm mới năm 2014]
42. Với bệnh nhân rung nhĩ kéo dài hơn 48h có chỉ định chuyển nhịp chủ động thì:
43. Đánh giá nhu cầu dùng thuốc để kiểm soát nhịp tim lâu dài, chú ý mong muốn của bệnh nhân, các bệnh kèm theo, các nguy cơ khi điều trị và khả năng tái phát của rung nhĩ [điểm mới năm 2014]
44. Nếu cần dùng thuốc để kiểm soát nhịp lâu dài, ức chế beta chuẩn (khác sotalol) là lựa chọn hàng đầu trừ khi có chống chỉ định [điểm mới năm 2014]
45. Nếu có chống chỉ định hoặc không thành công với ức chế beta, nên đánh giá các thuốc thay thế thích hợp để kiểm soát nhịp, chú ý các bệnh kèm theo [điểm mới năm 2014]
46. Dronedarone được khuyến cáo là một lựa chọn để duy trì nhịp xoang sau chuyển nhịp thành công ở những bệnh nhân có rung nhĩ kịch phát hoặc dai dẳng khi mà:
[Khuyến cáo này từ phần khuyến cáo Dronedadrone trong điều trị rung nhĩ không vĩnh viễn (hướng dẫn 197 của NICE) [2010, chỉnh sửa năm 2012]
47. Bệnh nhân không có đủ tiêu chuẩn trong khuyến cáo 46, đang dùng dronedarone nên tiếp tục dùng thuốc cho đến khi bệnh nhân và bác sĩ điều trị thấy thích hợp để ngưng. [ Khuyến cáo này từ phần khuyến cáo Dronedadrone trong điều trị rung nhĩ không vĩnh viễn (hướng dẫn 197 của NICE) [2010, chỉnh sửa năm 2012]
48. Cân nhắc amiodarone đối với bệnh nhân có giảm chức năng tâm thất trái hoặc suy tim [điểm mới năm 2014]
49. Không dùng thuốc chống loạn nhịp nhóm 1c như flecainide hoặc propafenone với bệnh nhân đã có bệnh tim thiếu máu cục bộ hoặc bệnh tim cấu trúc [điểm mới năm 2014]
50. Bệnh nhân có cơn kịch phát không thường xuyên hoặc ít triệu chứng, hoặc các triệu chứng bị gây ra do các yếu tố khởi kích đã biết như rượu hoặc café thì biện pháp không dùng thuốc hoặc ‘viên thuốc trong túi’ e nên được xem xét và thảo luận với bệnh nhân [2006]
51. Với những bệnh nhân bị rung nhĩ kịch phát, nên cân nhắc biện pháp “viên thuốc trong túi” khi:
52. Nếu kiểm soát triệu chứng rung nhĩ bằng thuốc thất bại hoặc không thích hợp thì:
53. Cân nhắc cắt đốt nhĩ trái bằng phẫu thuật cùng thời điểm với phẫu thuật lồng ngực khác được thực hiện trên bệnh nhân rung nhĩ có triệu chứng g [điểm mới năm 2014]
54. Xem xét đặt máy tạo nhịp và cắt đốt nút nhĩ thất với bệnh nhân rung nhĩ vĩnh viễn có triệu chứng hoặc rối loạn chức năng thất trái nghĩ do do tần số thất cao [điểm mới năm 2014]
55. Khi cân nhắc đặt máy tạo nhịp và đốt nút nhĩ thất, phải đánh giá lại triệu chứng và nhu cầu cắt đốt sau khi đặt máy và tối ưu hóa điều trị bằng thuốc [điểm mới năm 2014]
:::::::___
e Biện pháp “viên thuốc trong túi” được định nghĩa khi bệnh nhân tự điều trị cơn rung nhĩ kịch phát bằng cách uống thuốc chống loạn nhịp chỉ khi cơn rung nhĩ khởi phát.
f Để có thêm thông tin về cắt đốt nhĩ trái qua ống thông, xem Percutaneous balloon cryoablation for pulmonary vein isolation in atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 427), Percutaneous endoscopic catheter laser balloon pulmonary vein isolation for atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 399) và Percutaneous (non-thoracoscopic) epicardial catheter radiofrequency ablation for atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 294). Để có thêm thông tin về cắt đốt nhĩ trái bằng phẫu thuật không mở lồng ngực, xem phần Thoracoscopic epicardial radiofrequency ablation for atrial fibrillation (NICE interventional procedure guidance 286).
g Để biết thêm chi tiết về cắt đốt nhĩ trái bằng phẫu thuật cùng lúc với phẫu thuật tim lồng ngực khác, xem phần High-intensity focused ultrasound for atrial fibrillation in association with other cardiac surgery (NICE interventional procedure guidance 184), Cryoablation for atrial fibrillation in association with other cardiac surgery (NICE interventional procedure guidance 123), Microwave ablation for atrial fibrillation in association with other cardiac surgery (NICE interventional procedure guidance 122) and Radiofrequency ablation for atrial fibrillation in association with other cardiac surgery (NICE interventional procedure guidance 121).
56. Xem xét cắt đốt nhĩ trái qua ống thông trước khi đặt máy tạo nhịp và cắt đốt nút nhĩ thất đối với bệnh nhân có rung nhĩ kịch phát hoặc suy tim do rung nhĩ không vĩnh viễn (kịch phát hoặc dai dẳng) [điểm mới năm 2014]
57. Khi cân nhắc đặt máy tạo nhịp và cắt đốt nút nhĩ thất, phải đánh giá lại triệu chứng và nhu cầu cắt đốt sau khi tiến hành đặt máy và dùng tối đa thuốc điều trị [điểm mới năm 2014]
58. Cân nhắc cắt đốt nhĩ trái qua ống thông trước khi đặt máy và cắt đốt nút nhĩ thất với bệnh nhân có rung nhĩ kịch phát hoặc suy tim do rung nhĩ không vĩnh viễn (kịch phát hoặc dai dẳng) [ điểm mới năm 2014]
59. Tiến hành sốc điện chuyển nhịp cấp cứu mà không cần chờ đạt được hiệu quả chống đông với bệnh nhân có huyết động không ổn định đe dọa đến tính mạng do rung nhĩ mới khởi phát [ điểm mới năm 2014]
60. Cân nhắc sử dụng chuyển nhịp bằng sốc điện hoặc bằng thuốc tùy thuộc vào bối cảnh lâm sàng và nguồn lực của bệnh viện với trường hợp rung nhĩ mới khởi phát được điều trị với biện pháp kiểm soát nhịp. [điểm mới năm 2014]
61. Nếu có đủ điều kiện và thống nhất điều trị chuyển nhịp bằng thuốc với rung nhĩ mới khởi phát, đề nghị dùng:
62. Với bệnh nhân bị rung nhĩ dài hơn 48 tiếng hoăc không chắc chắn và đã được cân nhắc điều trị kiểm soát nhịp lâu dài, nên trì hoãn chuyển nhịp cho đến khi bệnh nhân đạt ngưỡng điều trị của thuốc chống đông ít nhất 3 tuần . Trong thời gian đó nên kiểm soát tần số nếu phù hợp [2006, chỉnh sửa năm 2014]
63. Không khuyến cáo dùng magnesium hoặc thuốc ức chế kênh calci cho việc chuyển nhịp bằng thuốc [điểm mới năm 2014]
64. Với bệnh nhân bị rung nhĩ cấp tính có huyết động không ổn định, nên kiểm soát tần số hoặc nhịp nếu rối loạn nhịp này khởi phát dưới 48 tiếng và bắt đầu kiểm soát tần số nếu khởi phát hơn 48 tiếng hoặc không chắc chắn [điểm mới năm 2014]
65. Với bệnh nhân có rung nhĩ mới khởi phát không sử dụng hoặc chưa đạt ngưỡng điều trị chống đông:
66. Với bệnh nhân đã được chẩn đoán rung nhĩ mới khởi phát (ít hơn 48 tiếng từ lúc khởi phát), khuyến cáo dùng thuốc chống đông bằng đường uống nếu:
:::::::_
h Các yếu tố cho biết nguy cơ cao rung nhĩ tái phát bao gồm: tiền sử chuyển nhịp thất bại, bệnh tim cấu trúc ( bệnh van 2 lá, rối loạn chức năng thất trái hoặc nhĩ trái lớn), tiền sử rung nhĩ kéo dài (hơn 12 tháng), tái phát rung nhĩ trước đây.
67. Những bệnh nhân bị rung nhĩ mới khởi phát không xác định chính xác thời gian từ lúc khởi phát nên dùng thuốc chống đông đường uống như trong điều trị rung nhĩ dai dẳng (xem chương 8, 9 và 10) [2006, chỉnh sửa năm 2014]
68. Để biết hướng dẫn xử trí ban đầu đột quị và rung nhĩ, xem thêm phần khuyến cáo mục 1.4.3.1 của “ Đột quị” (NICE hướng dẫn lâm sàng 68) [điểm mới năm 2014]
69. Để dự phòng và xử trí rung nhĩ sau phẫu thuật,dùng liệu pháp chống huyết khối thích hợp và điều chỉnh các các yếu tố thúc đẩy đã biết (như mất cân bằng điện giải hay thiếu oxy) [2006, chỉnh sửa năm 2014]
70. Với những bệnh nhân phẫu thuật tim lồng ngực:
71. Với bệnh nhân phẫu thuật tim lồng ngực đang dùng liệu pháp ức chế beta trước đó, nên tiếp tục phương thức điều trị này trừ khi có chống chỉ định (như nhịp chậm xoang sau mổ hoặc huyết áp thấp) (2006)
72. Dùng biện pháp kiểm soát nhịp là lựa chọn xử trí ban đầu để điều trị rung nhĩ sau phẫu thuật tim lồng ngực, trừ khi có chống chỉ định [2006, chỉnh sửa năm 2014].
73. Xử trí rung nhĩ sau phẫu thuật không thuộc nhóm phẫu thuật tim lồng ngực như là rung nhĩ mới khởi phát với bất kì yếu tố thúc đẩy nào khác, trừ khi có chống chỉ định [2006, chỉnh sửa năm 2014]
Tài liệu tham khảo
http://www.nice.org.uk/guidance/cg180 (ngày truy cập: 20/9/2015)
Từ khóa
Đang cập nhật